Monday, November 21, 2016

Dâu



Tên Việt: dâu Tên Hoa: 桑(tang) Tên Anh: white mulberry Tên Pháp: mûrier blanc Tên khoa học: Morus alba L. [M. tatarica] Họ: Moraceae

(Chinh Phụ Ngâm Khúc - Ðặng Trần Côn)
tương cố bất tương kiến,
thanh thanh mạch thượng tang.
mạch thượng tang! mạch thượng tang!
thiếp ý quân tâm thuỳ đoản trường?
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
062. Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu!
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
(bản dịch Ðoàn Thị Ðiểm)

Ngày xưa  áo nhuộm hoàng hôn
Dáng ai cắp rổ lên cồn hái dâu...
(♪♫Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu - Phạm Duy & PTT)

Tác dụng chữa bệnh: lá dâu (tang diệp) có tác dụng hạ sốt, chữa cảm mạo, hạ huyết áp, làm sáng mắt, chữa chứng mồ hôi trộm ở trẻ nhỏ, chứng thổ huyết, làm lành vết thương.
Trong tài liệu này, chúng tôi gọi tắt là cây dâu. Ở miền Bắc, dâu được trồng nhiều ở ngoài bãi sông: sông Hồng, sông Đáy, sông Thái Bình. Ở miền Nam, dâu được trồng nhiều ở tỉnh Lâm Đồng. Trong nhà dân, bà con thường trồng một vài cây dâu vừa hàng rào vừa làm thuốc nam. Một số người cho rằng cây dâu có tác dụng kị tà. Cây dâu, người xưa gọi là Tang, cho nên nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa còn gọi là nghề canh, cửi, tằm, tang. Trong quá trình trồng dâu nuôi tằm, các vị lương y ngày xưa đã phát hiện ra cây dâu cho tới 7 vị thuốc quý để chữa bệnh cho người, đó là:
1. Lá cây dâu, (Đông y gọi là Tang diệp), có tác dụng:
- Chữa chảy máu cam : Lấy lá dâu non, vò nhẹ và vo thành cái nút, nhét vào lỗ mũi chảy máu, máu cam sẽ ngưng chảy rất nhanh.
- Chữa nôn ra máu: Lấy 12-16g lá dâu và 7-9 ngọn cỏ nhọ nồi (cỏ mực) sao vàng hạ thổ, đổ 400/ml nước sắc còn 200/ml chia 2 lần uống trong ngày.
- Chữa trẻ em đổ mồ hôi trộm: Dùng 7-9 lá dâu non, 8gam hạt sen, 6gam Hoàng kì; nấu nước, pha thêm chút đường kính, cho bé uống ngày 2-3 lần, mỗi lần 1/3 li cà phê nhỏ.
- Dùng lá dâu nấu với bồ kết để gội đầu, vừa sạch gàu vừa đỡ rụng tóc.
2. Cành cây dâu, (Đông y gọi là Tang chi), có tác dụng : chữa phong thấp, đau lưng nhức mỏi, đau khớp xương. Bài thuốc gồm có : Cành dâu 16g ; Mắc cỡ đỏ 16g ; Cỏ xước 16g ; rễ cây bưởi bung 12g; Thiên niên kiện 12g ; gốc và rễ cây lá lốt 16g. Tang kí sinh 12g.
Cách dùng: đổ 600ml nước, sắc còn 300ml chia làm 2 lần uống. Chỉ cần 3-4 vị trong bài thuốc trên là đạt yêu cầu chữa bệnh. Uống mỗi ngày một thang, uống từ 7-10 ngày sẽ thấy bệnh thuyên giảm rõ rệt.
Có người còn dùng cành dâu nhỏ, cắt khúc, lấy dây chỉ xâu thành cái vòng để đeo vào cổ tay em bé. Người ta cho rằng làm như vậy là để em bé sẽ đỡ khóc đêm, đỡ bị giật mình khi ngủ.
3. Vỏ rễ cây dâu, (Đông y gọi là Tang bạch bì) dùng để trị các chứng bệnh ho khan, ho ra máu, chữa phù thũng, chữa cao huyết áp.
Cách làm: Đào rễ dâu , bóc lấy vỏ, bỏ lõi, cạo lớp vỏ bên ngoài, ngâm nước vo gạo 24 giờ, phơi khô rồi sao vàng hạ thổ. Mỗi lần dùng từ 10-16g. Nếu bị ho lâu ngày, có thể cho thêm 10g vỏ rễ cây chanh (cũng sao vàng hạ thổ), sắc uống.
Chữa phù thũng: Vỏ rễ dâu 16g; Vỏ quả cau 16g ; Vỏ củ gừng 8g ; Vỏ phục linh 16g ; Vỏ quýt 8g. Đây là bài Ngũ bì ẩm, một bài thuốc cổ của Đông y, chữa bệnh phù thũng rất hiệu quả. (Vỏ phục linh hay còn gọi là Phục linh bì, có bán ở các tiệm thuốc bắc).
4. Cây tầm gửi trên cây dâu, (Đông y gọi là Tang kí sinh). Đây là vị thuốc đầu bảng để chữa phong thấp, nhức mỏi của Đông y. Bài “Độc hoạt kí sinh thang” trong đó Tang kí sinh là đầu vị, là bài thuốc cổ phương để chữa chứng đau nhức từ thắt lưng trở xuống, thường dùng chữa bệnh cho các cụ cao tuổi. Bài thuốc gồm có: Tang kí sinh 20g; Độc hoạt 8g; Tần giao 8g; Phòng phong 8g; Tế tân 4g; Đương quy 12g; Cam thảo 4g; Nhục quế 4g; Bạch thược 10g; Xuyên khung 8g; Ngưu tất 16g; Sinh địa 12g; Đỗ trọng bắc 12g. Bài thuốc này khá lớn, nên khi sắc, ta đổ nước ngập thuốc khoảng 3cm, sắc còn 2 chén, chia làm 3 lần uống trong ngày. Sắc lần thứ 2 đổ nước ngập thuốc 1cm.
Tang kí sinh còn là vị thuốc an thai, dùng để chữa chứng động thai, như người có thai mà đau bụng, ra huyết; hay người bị sẩy thai nhiều lần liên tiếp. Bài thuốc gồm có: Tang kí sinh 12g ; Lá ngải cứu 12g ; Cành tía tô 12g; Củ cây gai 12g.
Cách dùng: đổ 600ml nước, sắc còn 200ml chia làm 2 lần uống trong ngày.
5. Tổ bọ ngựa làm trên cây dâu, (Đông y gọi là Tang phiêu tiêu). Theo sách cổ thì Tang phiêu tiêu có tác dụng bổ thận, cố tinh, sáp niệu.
Cách dùng: Tang phiêu tiêu nướng vàng, tán thành bột, ngày uống 5 gam. Hoặc dùng: Tang phiêu tiêu 4g; Hạt sen 16g; Yếm rùa 12g; Lá dâu non 16g; Dây lạc tiên (hơ qua lửa cho cháy hết lông) 16g. Đổ 600ml nước sắc còn 200ml, chia 2 lần uống trong ngày. Dùng để chữa chứng tiểu đêm nhiều lần, di tinh, mất ngủ, đái dầm, phụ nữ bị bệnh bạch đới, khí hư…
6. Trái dâu chín, (Đông y gọi là Tang thầm). Hái trái dâu đã chín thâm, thêm vị Hà thủ ô đỏ, ngâm với rượu mà dùng, có tác dụng bổ thận và làm cho tóc chậm bạc.
7. Sâu dâu, là loài sâu đục thân, thường nằm trong thân cây ở đoạn gốc. Bắt sâu dâu nướng cho trẻ em ăn, có tác dụng trị được bệnh đái dầm và chứng nghiến răng khi ngủ

Cây dâu trước kia được nhân dân ở nhiều vùng nước ta trồng rất nhiều để chăn nuôi tằm, lấy tơ dệt vải. Ngoài ra dâu còn được dùng làm thuốc chữa bệnh, chất mỹ phẩm bảo vệ da, trái dâu ngâm rượu làm thức uống khai vị.

Tên khoa học: Morus alba L.
Tên khác: Mạy môn (dân tộc Thổ); Dâu cang (dân tộc Mèo); Tầm tang.
Bộ phận dùng
Sử dụng toàn bộ cây dâu, gồm lá, vỏ, rễ, thân cây và trái dâu.
Dâu có nhiều tác dụng tốt trong việc chữa bệnh, chưa thấy có phản ứng phụ nào, nhất là trong các sản phẩm bảo vệ da.
- Lá dâu gọi là Tang diệp (Folium Mori).
- Vỏ rễ cây dâu gọi là Tang bạch bì (Cortex, Mori radicis).
- Quả dâu gọi là Tang thầm (Fructus Mori).
- Cây mọc ký sinh trên cây dâu gọi là Tang ký sinh (Ramulus loranthi).
- Tổ bọ ngựa trên cây dâu gọi là Tang phiêu tiêu (Ootheca mantidis).
- Sâu dâu: Con sâu nằm trong thân cây dâu, vốn là ấu trùng của một loại xén tóc.
- Cây dâu có thể cao 10-15m nếu không thu hái thường xuyên. Lá mọc so le, hình bầu dục, nguyên hoặc chia 3 thùy, có lá kèm, đầu lá nhọn hoặc hơi tù. Phía cuống hơi tròn hoặc hơi bằng, mép có răng cưa to. Từ cuống lá tỏa ra 3 gân rõ rệt. Hoa đực mọc thành bông, có lá đài, 4 nhị (có khi 3). Hoa cái cũng mọc thành bông hay thành khối hình cầu, có 4 lá đài. Quả mọc trong các lá đài, màu đỏ, sau đen sẫm, ăn được, còn dùng làm thuốc hoặc ngâm rượu để uống, mùi thơm, vị chua ngọt.
Các bài thuốc từ cây dâu
- Tang bạch bì, tang diệp dùng làm thuốc lợi tiểu trong bệnh thủy thũng, chữa ho lâu ngày, băng huyết, hen phế quản, ho có đờm, sốt, cao huyết áp, giúp sáng mắt. Liều dùng hàng ngày từ 6-18g dưới dạng sắc hay thuốc bột.
- Tang thầm (quả dâu): Bổ thận, chữa mất ngủ, giúp ăn ngon.
- Tang phiêu tiêu: Chữa bệnh đường tiết niệu, di tinh, trẻ đái dầm.
- Sâu dâu: Chữa đau mắt. Liều từ 6-12g, cách uống như trên.
Chữa ho ra máu: Tang bạch bì 600g ngâm nước vo gạo trong 3 đêm, tước nhỏ. Cho vào 250g gạo sao vàng, tán nhỏ, trộn đều. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 8g, chiêu bằng nước cơm.
Ho lâu năm: Lấy vỏ rễ cây dâu trộn thêm vỏ rễ cây chanh, mỗi thứ 10g, sắc uống trong ngày.
Chữa động thai, đau bụng: Tang ký sinh 60g, dao (hoặc cao ban long) nướng thơm 20g, ngải diệp 20g, nước 3 bát (600ml) sắc còn 1 bát (200ml). Uống nhiều lần trong ngày.
Tóc không mọc, tóc bạc: Quả dâu ngâm nước, lọc lấy nước xoa vào đầu.
Ðặc biệt đối với rụng tóc: Tang bạch bì (vỏ rễ cây dâu) giã dập nhỏ, đun nước sôi 30 phút, lọc lấy nước gội đầu thường xuyên.
Ngoài ra dâu còn được dùng nhiều trong các loại mỹ phẩm bảo vệ da, như sữa rửa mặt cho phụ nữ, có tác dụng giúp da tươi tắn và mịn màng.

Cách dùng: lá dâu tươi: 50 gr sắc với 200 ml, còn 100 ml, chia uống hai lần trong ngày (sáng, chiều để chữa cảm mạo, sốt cao, cao huyết áp). Chứng thổ huyết: lấy lá dâu già sao vàng hạ thổ dùng 12 - 20 gr, sắc với 100 ml còn 50 ml, uống ngày 2 lần. Trẻ con đổ mồ hôi trộm: dùng 30 - 40 gr lá dâu non, thái nhỏ, nấu với thịt nạc cho trẻ ăn liên tục 15 - 20 ngày. Vết thương, mụn nhọt lâu lành miệng dùng lá dâu già rửa sạch, sao thật vàng, tán mịn, rắc vào vết thương.
Vỏ, rễ cây dâu (tang bạch bì): chữa chứng ho lâu ngày, sốt cao, băng huyết, cao huyết áp... Cách làm: vỏ rễ cây cắt nhỏ, sao vàng hạ thổ (tán nhỏ hay để nguyên cũng được). Liều dùng 20 gr/ngày sắc với 100 ml, còn 50 ml uống trong ngày. Cành dâu (tang chi): chặt thành từng đoạn dài 3 - 4 cm, phơi khô, sao vàng hạ thổ; Có thể dùng độc vị (chỉ có cành dâu) hoặc phối hợp với một số vị thuốc khác để chữa các chứng đau nhức xương khớp (nhất là ở tay chân). Quả dâu (tang thâm) có tác dụng bổ gan, thận huyết, tiểu đường, lao hạch. Lấy quả dâu chín rửa sạch rồi đem nấu cao mềm, ngâm rượu hoặc làm mứt (khi ngâm rượu thì chỉ dùng 50 ml vào buổi tối).
Cây tầm gửi trên cây dâu (tang ký sinh): có tác dụng trị các chứng đau nhức xương cốt, lợi sữa, an thai. Để trị chứng phong thấp thường phối hợp với các vị thuốc khác (trong bài thuốc độc hoạt tang ký sinh). Tổ bọ ngựa trên cành dâu (tang phiêu tiêu): có tác dụng trị chứng đái dầm ở trẻ nhỏ, di tinh, liệt dương. Cách dùng lấy tổ bọ ngựa nướng vàng, tán mịn, ngày dùng 10 gr, chia làm 2 lần, dùng liên tục 15-20 ngày. Cần chú ý tang ký sinh và tang phiêu tiêu là hai vị thuốc rất quý và hiếm, cần thận trọng khi thu mua, vì chỉ có ở những cây dâu lâu năm, còn dâu trồng theo dạng công nghiệp thì không thể có được.
Sâu dâu (là ấu trùng của con xén tóc) có tác dụng đối với trẻ còi xương, suy dinh dưỡng, bồi bổ sức khỏe cho người già yếu. Cách dùng nướng 1-2 con sâu dâu cho trẻ ăn 1-2 lần/ngày. Hoặc dùng ngâm rượu cho người lớn (có thể phối hợp với 1 số loại thuốc khác để tăng tác dụng). Chú ý cách bắt sâu, vì ban ngày sâu chui xuống đất, ban đêm mới bò lên thân cây để đục thân, vì vậy phải bắt vào khoảng 21 giờ - 4 giờ sáng, dùng dao bén phạt vào thân cây, dưới chỗ phân đùn ra chừng 15-20 cm, làm nhanh gọn, dứt khoát, nếu không sâu sẽ chui xuống đất.


Cây dâu có tên khoa học là Morus alba L., Họ Dâu tằm – Moraceae hay cây dâu còn được gọi là cây Tầm tang, Mạy môn (Thổ), Dâu cang (Mèo).
Đặc điểm thực vật, phân bố của cây Dâu: Cây Dâu thân gỗ có thể cao tới 15m. Lá mọc so le, hình bầu dục, nguyên hoặc chia thành 3 thùy, có lá kèm, đầu lá nhọn hay hơi tù, mép có răng cưa to. Hoa đơn tính, khác gốc, hoa đực mọc thành bông có 4 lá đài, 4 nhị; hoa cái cũng mọc thành bông hay thành khối hình cầu, có 4 lá đài. Quả bế bao bọc trong các lá đài mọng nước thành 1 quả phức (quả kép) màu đỏ, khi quả già chín có màu đen sẫm. Cây Dâu được trồng khắp nơi ở ViệtNam.
Cách trồng cây Dâu: Trồng cây Dâu bằng cành vào đầu mùa xuân.
Bộ phận dùng, chế biến của cây Dâu: Lá Dâu tươi hoặc khô, vỏ rễ Dâu màu trắng, phơi khô; quả Dâu, cành Dâu, tầm gửi trên cây Dâu, tổ bọ ngựa trên cây Dâu, sâu Dâu.
Công dụng, chủ trị cây Dâu:
+ Tang bạch bì  (vỏ rễ) vị ngọt mát, làm thuốc lợi tiểu, chữa ho lâu ngày, ho có đờm và chữa sốt.
+ Tang diệp (lá Dâu) vị ngọt, đắng, mát: chữa sốt, cho ra mồ hôi, cảm mạo, an thần, tiêu đờm, huyết áp cao.
+ Tang thầm (quả Dâu) vị ngọt, bổ thận, sáng mắt, giúp sự tiêu hóa, chữa bệnh ngủ kém, râu tóc bạc sớm.
+ Tang ký sinh (cây mọc ký sinh trên cây Dâu): bổ gan thận, c
'[, đau mình, an thai.
+ Tang phiêu tiêu (tổ bọ ngựa trên cây Dâu) lợi tiểu tiện, chữa đi đái nhiều lần, di tinh, liệt dương, trẻ con đái dầm.
+ Sâu Dâu chữa bệnh trẻ con bị đau mắt, nhiều nhử, nhiều nước mắt.
Liều dùng cây Dâu:
+ Tang bạch bì: ngày dùng 6 – 12g, dạng thuốc sắc.
+ Tang diệp: ngày dùng 6 – 18g, dạng thuốc sắc.
+ Tang thầm: ngày dùng 12- 30g làm nước giải khát.
+ Tang ký sinh: ngày dùng 12 – 20g, dạng thuốc sắc.
+ Tang phiêu tiêu: ngày dùng 6 -12g.
+ Sâu Dâu: cả con nướng ăn hoặc ngâm rượu.
Chú ý:
+ Cơ thể suy yếu, ho không đờm, ho do lạnh không có nóng sốt không dùng Tang bạch bì.
+ Những người đại tiện lỏng không dùng Tang thầm.
+ Những người viêm tiết niệu, mộng tinh không dùng Tang phiêu tiêu.
+ Phụ nữ đang cho con bú không dùng các vị thuốc từ cây Dâu.
Đơn thuốc có cây Dâu:
+ Dự phòng cảm cúm: Lá Dâu, Cúc hoa, hạt Muồng sao, mỗi loại 12g. Sắc lấy nước uống nhiều lần trong ngày.
+ Viêm khớp sưng đau tê bại đầu chi: Cành Dâu, Kê huyết đằng, Uy linh tiên mỗi vị 12g, sắc uống ngày 2 – 3 lần.
+ Mồ hôi trộm, ra mồ hôi chân tay: Lá Dâu, Cúc hoa, Liên kiều, Hạnh nhân mỗi vị 12g; Bạc hà, Cam thảo, Cát cánh mỗi vị 4g; rễ Sậy tươi 20g sắc uống ngày 1 thang, uống kéo dài 3 – 4 tuần.


No comments:

Post a Comment