Wednesday, November 25, 2015

 
1.VỢ CHỒNG GIÀ  
Vợ chồng nay đã về già 
Lưng còng gối mỏi, làn da đồi mồi 
Khó khăn lúc đứng khi ngồi 
Mắt mờ, tai điếc, răng thời lung lay 


Về hưu rảnh rỗi cả ngày 
Cụ bà đổi tính nên hay nói nhiều 
Thôi thì cụ nói đủ điều 
Trời mưa trời nắng, từ chiều tới khuya 
Trách ông già: vẫn không chừa 
Tính tình gàn dở, khó ưa quá trời 
Lỗi ông cụ nhớ thật dai 
Lâu lâu lại nhắc một vài tật xưa 
Đi đâu hai cụ chung xe 
Cụ ông cầm lái cụ bà chỉ huy 
Hãy nhìn đèn đỏ đằng kia 
Ông mà vượt nó hồn lìa thế gian 
Lái xe cốt giữ an toàn 
Chạy nhanh lái ẩu là tan thân già 
Những ngày hai cụ ở nhà 
Đứng ngồi quanh quẩn vào ra đụng đầu 
Truyện trò chỉ được vài câu 
Thế là các cụ bắt đầu sùng lên 
Bà rằng: ông dở chứng điên 
Ông rằng: bà mới vô duyên trên đời 

Hôm nao khó ở trong người 
Không gây nhau thấy buồn ơi là buồn 
Gây hoài riết trở thành quen 
Gây xong lại nắm tay em cười hòa 

Cãi nhau cái thú người già 
Không gây không cãi, cửa nhà buồn tênh 
                   *****
2. CHUYỆN LẠ . . .
 Nguyên Nhung
Trời đã sang hè, mới xế trưa mà nắng đã chói chang trên mảnh vườn sau, sân trước thuộc hướng Đông nên còn tý bóng mát. Khung cửa sổ rộng được che bằng cây hoa bông bụt trắng cao tới mái nhà, bên cạnh là một cây hoa vàng cũng trổ hoa rực rỡ để bà nội Tý anh, Tý em đôi khi tức cảnh sinh tình mà mần thơ ...con cóc.
Trưa chủ nhật nắng chưa gì đã vội vã hắt cái nóng cháy da lên miền "đất nóng tình sôi" này, báo hiệu một mùa hè khủng khiếp vì nóng. Cái nóng ở đây rất giống ở quê nhà, vừa nóng vừa ẩm nên khách từ phương xa đến sẽ tha hồ lau mồ hôi rin rít trên người, vừa chắc lưỡi khâm phục người địa phương sao giỏi chịu đựng cái lò lửa thiên nhiên suốt một mùa hè dằng dặc. 
Bà nội Tý anh Tý em dạo này hay ốm vặt nên lười biếng chẳng ngó ngàng gì đến cây cỏ, bỏ mặc mấy cái cây phía sân trước tự vươn lên nhờ mưa nắng ơn Trời, thế mà chúng nó cũng lớn lên sơi sởi mà chẳng hề trách móc chủ nhân đã hững hờ với cỏ cây. Nắng ơi là nắng, đi chợ về vừa bước xuống xe chưa vội vào nhà, bà đứng núp dưới gốc cây hoa dâm bụt đang nở rộ những bông hoa trắng ngà, tàn lá xanh làm dịu hẳn đi cái nóng của mùa hè Texas. Hồi mới mua nhà, vì mê cái sắc hoa màu trắng hơi ngà ngà như màu áo lụa Hà Đông, nên bà đã tống khứ cây trúc đào ra khỏi cái mảnh sân tý xíu ấy. Những tưởng hoa bông bụt chỉ be bé xinh xinh cao bằng cái hàng rào bông bụt ở quê nhà mà thôi, ai ngờ đất lành cây tươi tốt, mưa ở Texas có thể gọi là mưa bốn mùa, mùa nào cũng mưa được, để bù trừ cho những cơn nóng nghiệt ngã gần trăm độ. Cây bông bụt lớn như thổi vươn cao lên tới mái nhà, lòa xòa phủ bóng che cho cái khung cửa sổ , mới đó mà đã 5 mùa bông trổ hoa. . . 
Tý anh bây giờ đã đi học, dịp hè nó được nghỉ ở nhà ba tháng tha hồ chơi, thằng Tý em bụ bẫm ngày nào còn đứng trong cũi mơ màng nhìn cây hoa chanh, nay cũng lon ton đi theo bà nội ra đứng dưới bóng cây bông bụt. Bỗng bà nội tưởng mình lóa mắt vì cái nắng ban trưa, khi thấy trên cây hoa bụt màu trắng treo lơ lửng một bông hoa màu đỏ tươi roi rói. Mới đầu bà tưởng có đứa nhỏ hàng xóm nghịch ngợm treo vào đó bông hoa giả, nhưng dí mắt vào tận nơi bà mới phát hiện ra chuyện lạ. Thế là bà kêu ầm lên: 
" Giời ơi! sao lại có chuyện lạ lùng như vậy"
Bà thét cháu gọi ông nội đang lúi húi mở cửa "garage":
" Tý, bảo ông nội lấy cái máy chụp hình ra đây. Giời ơi! Phép lạ chứ không phải chuyện đùa, không lẽ nhà mình sắp trúng số..."
Tý em lật đật ra níu ông nội lôi gần rách cả áo, khiến ông bực mình nhăn như cái bị:
" Ơ hay! Bà cháu mày làm gì như bị khủng bố vậy?"
Bà rên lên như trời xập:
" Ông ơi! Cái hoa màu đỏ ..."
" Màu đỏ thì đã sao?"
Bà lôi ông lại gần cây bông bụt cao nghệu, dí đầu ông vào sát cái hoa màu đỏ:
" Ông đeo kính vào nhìn cho kỹ đây nè. Cái hoa màu đỏ nở trên cây hoa bông bụt màu trắng. Thế, thế không phải là phép lạ thì là gì?"
Ông bĩu môi:
" Chuyện ấy là thường, bà đi học chữ trả Thầy nên quên ráo trọi . Môn Vạn Vật năm đệ nhị có bài học cha mẹ là chuột trắng, lấy nhau đẻ ra một đàn chuột 10 con, trong ấy lại lẫn vào 1 con chuột đen xì như cái mõm chó. Chẳng qua vì từ đời cha ông cụ kỵ nhà chúng nó, đã có ông chuột trắng đi tò tý với bà chuột đen nên sau này đến đời cháu chít, nhớ nguồn xưa mà sản xuất ra được một tý nhau màu đen đó mà..."
Bà giương cặp mắt toét ra nhìn ông:
" Hừ ! Ông nói cũng có lý, nhưng giá như tôi với ông ngày xưa là dân da vàng, bỗng nhiên thòi ra bố thằng Tý anh mà lại da trắng mắt xanh thì ông có chịu được không nhỉ?"
Rõ là ăn nói lăng nhăng, hai ông bà lại sắp cãi nhau đây.Tý anh chạy vào nhà đã lấy ra cái "digital camera" mới cáu của bố nó đưa cho ông nội:
"Ông nội chụp hình đi để Tý đem cho cô giáo và các bạn cùng xem nghe ông nội."
Ôi! Cái thời tin học này thì chỉ lát nữa đóa hoa bông bụt màu đỏ nhà bà nội Tý anh sẽ đi khắp toàn cầu, nhưng trước hết thì phải có cuộc tranh luận giữa "hai con khỉ già " cái đã. Ông nội bấm máy xoành xoạch, hết kiểu xa rồi lại kiểu gần, bụi hoa vươn lên cao hơn mái nhà nếu như mùa Đông năm vừa qua ông không cắt trụi đi những cành to và khỏe thì nó còn muốn vươn lên đến trời xanh. 
Bà vẫn đứng vạch lá tìm hoa, nhất quyết tìm ra chân lý dù ông đã cắt nghĩa:
" Tôi vẫn thấy nó vô lý làm sao ấy ông ạ. Cả mấy tháng nay người mệt mỏi, tôi có thiết gì hoa với lá, có chăm sóc cho nó đâu mà bảo rằng đã tưới tắm một loại phân gì đó nên hoa mới đổi ra màu đỏ. Nếu cả cây đều màu trắng pha đỏ thì mình còn dễ hiểu đôi chút về cái sự pha giống mà người ta gọi là "Hai, hai" gì đó..."
Ông kiên nhẫn giảng giải:
" Khoa học họ gọi là sự pha trộn Gene của 2 giống hoa vào nhau, tên khoa học gọi là Hydrid, sự pha trộn này giống như ở nhà quê người ta tháp cây này vào cây kia, lấy cành mãng cầu mà tháp vào cây bình bát, cây sẽ khỏe và khi kết trái sẽ cho trái nhiều và lớn hơn ..."
Bà ngắt lời ông:
" Ăn trái cây kiểu lấy no thì thà đừng ăn cho xong, chẳng ngon lành gì vì vẫn còn hương bình bát khai ngấy chua lè. Nhưng tôi muốn nhắc ông quan sát kỹ cái cây hoa này rồi hãy nói chuyện khoa học khoa hiếc dông dài có được không? Đây nè! Cái cành này không phải cành lớn mọc từ dưới đất lên nghe, nó chỉ là một cành nhỏ từ thân cây mẹ, bao nhiêu hoa cùng một cành đều trắng, mà lại chen lẫn bông hoa màu đỏ này, thì ông cắt nghĩa cho tôi nghe xem có êm lỗ tai không nào?"
Ông quả tình bối rối, dễ thường có phép lạ thật, chẳng gì màu đỏ cũng là màu phục lâm, màu của hỷ tín thì chắc nhà ông sắp phát tài đến nơi, nhưng ông mấy khi tin vào những cái nhảm nhí ấy, nên cố lấy một ví dụ khác để mở mang cái đầu mê tín của bà nội Tý anh Tý em:
" Hà hà, thời buổi này khoa học đã chứng minh được nhiều điều mà các cụ xưa cho là chuyện lạ. Chuyện này nếu không do con người làm thì cũng là sự tự tạo bởi thiên nhiên, giống như bây giờ vì giá dầu xăng đắt đỏ, người ta chế chiếc xe có thể vừa dùng Gas, vừa dùng Eletricity, miễn sao xe chạy tốt là được, y như cây cỏ vậy thì sự lai tạo cũng chỉ với mục đích làm dồi dào thực phẩm, tạo thêm màu sắc tươi đẹp cho thiên nhiên ."
Bà gật gù nhưng vẫn không chịu thua:
" Tôi chỉ thắc mắc điều này là cái cây mình trồng đã cho hoa 5 mùa rồi, toàn hoa trắng ngà như áo lụa Hà Đông..."
Ông tủm tỉm cười ngắt ngang:
" Sư tử Hà Đông thì có..."
Bà lườm ông một cái thật dài, mắt đã mù mờ nhưng cái đuôi mắt còn dài lắm:
" Hừ, ông chỉ muốn lạc đề đánh lận con đen. Này, trên cùng một cành cây xuất phát từ thân cây mẹ, không thể nào lại có sự pha trộn lầm lẫn như cách tháp cây của các " home depot" thường làm. Cây nào cũng ghép dưới đất hai ba gốc, đến chừng đem về trồng chẳng đứa nào chịu đứa nào, cuối cùng ngỏm hết có đứa nào sống được đâu. Đằng này cây nở 5 mùa hoa, không pha trộn mà bỗng nhiên lại lòi ra một bông hoa đỏ nguyên si như thế này, không lai một ly ông cụ nào thì bảo sao tôi chẳng nghi ngờ..."
Ông đuối lý gật gù:
" May mà tôi già rồi chứ không thì bỏ mẹ với bà. Nhà mình đẻ ra toàn da vàng mũi tẹt, cái mặt không giống hẳn bố thì cũng phải giống mẹ, giống cụ nội cụ ngoại, chưa thấy đưá nào mắt xanh tóc vàng cả."
Bà cười lườm ông thêm một cái nữa, trông vẫn tình ra phết. Bà lại thêm một cái thí dụ nữa để bảo vệ lập trường của mình cho ăn chắc:
" Tôi lấy thí dụ như có một cặp vợ chồng da trắng, bỗng dưng bà vợ đẻ ra một đứa con đen xì, liệu rằng ông chồng có tin rằng đây là sự hôn phối của tổ tiên nhà bà ấy để cho ra đời một thằng bé màu cà phê không? "
Ông nhẫn nại tìm một hình ảnh cụ thể nữa để chứng minh cho hiện tượng trắng đỏ của hoa, và đen trắng của loài người:
" Bà có nhớ hồi xưa ở Việt Nam gia đình nhà anh Luân cũng ở trong trường hợp này không? Chị ấy đẻ ra một con bé xinh ơi là xinh, cái mặt hệt như bố nhưng nước da trắng bóc, tóc lại vàng óng từng lọn như búp bê. Ai cũng bảo con bé không lai Tây thì cũng lai Mỹ, nhưng thời buổi ấy không còn Tây mà cũng chẳng còn Mỹ, ăn toàn bo bo chứ có phải vì bơ sữa mà được mởn ra đâu. May là con bé giống bố chứ không thì chị ấy cũng khó ở nổi với mấy mụ giặc bên Ngô không bằng cô bên chồng. Sau này con bé lớn dần lên, tóc nó lại từ từ xậm hơn rồi đổi thành màu hung hung đen, lại trở về nguyên si cái gốc Á Đông của nó, thế là thế nào, có phải phép lạ không?"
Bà im lặng ngẫm nghĩ :
" Ừ, nhưng nghe nói chị ấy nhà có dòng họ lai từ thời mấy ông cố Tây đi truyền đạo, trong dòng họ đã có người lấy Tây rồi đẻ ra ông nội chị ấy, mà phải đợi đến cái đời con của chị hiếm hoi lắm mới ảnh hưởng cái giống tóc xanh mũi lõ nhà ông cố ông sơ ở bên Tây. Thế nhưng lai gì thì lai, nó vẫn giống cái mặt anh Luân, chứ đâu lại tuyền một màu đỏ như cái bông bụt này..."
Ông đã ghi xong mấy tấm hình cho bà giữ làm "kỹ nghệ", trời nóng đổ mồ hôi hột mà chỉ vì cái bông hoa bụt đỏ lạ kỳ khiến ông bà quên cả nóng. Ông bảo:
" Bà vào nấu cơm cho tôi với các cháu ăn đi, chả lẽ đứng đây phơi nắng mãi nhỉ?"
Chiều đến, cơm nước xong, bà bắt Tý anh Tý em mỗi đứa ăn một quả chuối to, chỉ cái quả chuối thôi mà trong nhà cũng đã khối chuyện để bàn bạc. Bà luôn luôn lo lắng hai thằng cháu nội mất gốc quên nguồn cội , còn ông thì cho là bà lẩm cẩm đầy tự ty mặc cảm, chỉ lo chuyện con bò trắng răng. Chuối nào chẳng là chuối, chuối xiêm, chuối tây, chuối tiêu, chuối ngự, chuối nào ông cháu cũng xực tuốt, nhưng với bà thì hương vị vẫn khác nhau, và ẩn dấu trong đó là cái cội nguồn của dân tộc. Dù sao thì cũng đất nước người ta, xứ sở người ta, đứng cách nào, cao hay thấp, giàu hay nghèo thì cái vỏ của nó vẫn không thể hòa nhập vào nhau để trở thành một. Đến lúc nào đó trong cuộc đời, các cháu bà lớn lên sẽ tưởng nó hoàn toàn thuộc về xứ sở này mà quên mất nguồn cội của nó, nhưng chắc chắn cuộc đời sẽ có lúc mở mắt cho nó nhìn ra điều khác biệt giữa những cái vỏ chuối. . . 
Tối đến, ông nội ngồi xem tin tức trên truyền hình, Tý anh Tý em còn đùa giỡn với cha mẹ trong phòng riêng, bà nội lên ngồi lướt Net. Ôi! Thời buổi văn minh này mà không biết lướt Net thì đời vô cùng "boring" như trăng tàn trên hè phố, dù gì bà cũng có một số bạn phương xa cùng trang lứa để tâm sự vụn. Như cái hình bông hoa bụt đỏ này chắc chắn không thể nằm trong im lặng ở cái sân trước nhà bà được, chỉ nội tối nay nó sẽ bay đến bạn bè muôn phương. Trước tiên bà định hỏi cái ông anh chuyên trồng cây cảnh, nhưng nghĩ thế nào lại chợt nhớ ra cái Net Khoa Học, có sẵn bao nhiêu tài liệu quý hiếm thì thế nào chẳng được một câu trả lời hợp lý, chứ không lấp lửng như "con khỉ già" chỉ hay nửa thực nửa đùa chọc vợ suốt mấy chục năm rồi.
Tức nhiên buổi sáng hôm sau, bà nhận được rất nhiều " feedbacks" với những lời nửa đùa nửa thực rất giống ông nhà bà không sai một ly. Người thì bảo tại bà không chịu thêm đất, bón phân, tưới tắm đầy đủ nên có một bông hoa "đỏ mặt tía tai" lên mà nhắc khéo bà nên tử tế với cây cỏ một chút. Người thì văn chương đầu óc tưởng tượng lênh láng, kết hợp một câu chuyện tình ướt át , để hoa vì mặn tình mà bỗng đổi sang màu đỏ. Người thì cám cảnh thế thái nhân tình, tình đời đổi trắng thay đen nên nhân dịp này trách hoa cũng khéo theo thời mà đổi từ màu trắng sang màu đỏ. Người thì đổ thừa hoa bị nhiễm thể vì một hóa chất nào đó, nhưng theo lý luận của bà thì nếu cây bị nhiễm chất lạ, nó phải đổi màu nguyên cây chứ đâu lại có mỗi một bông hoa.
Còn bao nhiêu lời bàn Mao Tôn Cương rộn rã đem lại niềm vui cho bà suốt mấy ngày mà đề tài xem tầm thường nhưng rất lạ. Nào là màu đỏ là hỷ tín, đi mua vé số mau kẻo hết. Nào là đi Casino lấy hên, kéo máy tiền vô như nước. Nào là biết đâu sau hai thằng Tý anh và Tý em, nhà lại sắp thêm cái "hĩm" để có nếp có tẻ cho vui nhà vui cửa. Có lẽ bà cũng mong như thế thật, vì đời bà đẻ toàn con trai, đến đời cháu lại vẫn toàn đựa rựa, vì thế mà lúc nào Bà cũng được ưu tiên theo lối Mỹ khi người ta xếp thứ tự: " Thứ nhất đàn bà, thứ nhì trẻ con, thứ ba con chó Ki Ki, sau cùng mới đến cái người ... quanh năm đi cày đóng thuế".
Mùa hè, 2007
Nguyên Nhung

Một hôm, một vị samurai đến thu nợ của người đánh cá.
Người đánh cá nói: “Tôi xin lỗi, nhưng năm vừa qua thật tệ, tôi không có đồng nào để trả ngài.”

Vị samurai nổi nóng, rút kiếm ra định giết người đánh cá ngay lập tức.

Rất nhanh trí, người đánh cá nói: “Tôi cũng đã học võ và sư phụ tôi khuyên không nên đánh nhau khi đang tức giận.”

Vị samurai nhìn người đánh cá một lúc, sau đó từ từ hạ kiếm xuống.

“Sư phụ của ngươi rất khôn ngoan. Sư phụ của ta cũng dạy như vậy. Ðôi khi ta không kiểm soát được nỗi giận dữ của mình. Ta sẽ cho ngươi thêm một năm để trả nợ và lúc đo chỉ thiếu một xu thôi chắc chắn ta sẽ giết ngươi.”

Vị samurai trở về nhà khi đã khá muộn.

Ông nhẹ nhàng đi vào nhà vì không muốn đánh thức vợ, nhưng ông ta rất bất ngờ khi thấy vợ mình và một kẻ lạ mặt mặc quần áo samurai đang ngủ trên giường.

Nổi điên lên vì ghen và giận dữ, ông nâng kiếm định giết cả hai, nhưng đột nhiên lời của người đánh cá văng vẳng bên tai: “Ðừng hành động khi đang giận dữ.”

Vị samurai ngừng lại, thở sâu, sau đó cố tình gây ra tiếng động lớn.

Vợ ông thức dậy ngay lập tức, kẻ lạ mặt cũng vậy, hoá ra đó chính là mẹ ông.

Ông gào lên: “Chuyện này là sao vậy. Suýt nữa con đã giết cả hai người rồi!”

Vợ ông giải thích: “Vì sợ kẻ trộm lẻn vào nhà nên thiếp đã cho mẹ mặc quần áo của chàng để doạ chúng.”

Một năm sau, người đánh cá gặp lại vị samurai.

“Năm vừa qua thật tuyệt vời, tôi đến để trả nợ cho ngài đây, có cả tiền lãi nữa”, người đánh cá phấn khởi nói.

“Hãy cầm lấy tiền của ngươi đi.” Vị samurai trả lời, “Ngươi đã trả nợ rồi.”

Tuesday, November 24, 2015

Ông Tư bị ung thư và biết chắc không thể sống lâu hơn sáu tháng. Ông bình tỉnh chờ cái chết, và vui vẻ sống những ngày ngắn ngủi còn lại, mà không bi ai, không sợ hãi. Ông muốn sau khi chết, gia đình làm đám tang theo ý riêng của ông. Bà vợ nghe dặn dò cách thức làm đám tang kỳ dị, thì nói giọng buồn, với đôi mắt cầu khẩn:
– Em nghe nói ngày xưa ở Huế, người đàn bà đầu tiên đi xe đạp, bị cả thành phố phỉ nhổ, xem như là Me Tây, như kẽ phá hoại phong hóa nơi đất thần kinh. Cho đến khi chiếc xe gắn máy hiệu “Velo solex” ra đời, người đàn bà đầu tiên xữ dụng, cũng bị xem như là thứ côn đồ, cao bồi du đảng, chẵng ai dám giao du thân mật. Đến như bà Thu, vốn là một công chúa, dù là con của vị phế đế, là người đàn bà có xe hơi, và lái xe hơi dầu tiên ở Huế, cũng bị thiên hạ nghi ngờ oan ức đến cái đức hạnh của bà, mà suốt đời không kiếm được một tấm chồng. Thế mà bây giờ, anh bảo em làm đám tang khác thiên hạ, không giống ai, thì chịu sao nỗi lời tiếu đàm của bà con, họ hàng!
Ông Tư cười, nhìn vợ và nói:
– Cái gì cũng phải có khởi đầu, có người làm trước, về sau thiên hạ thấy hay mà làm theo. Không ai khởi đầu cả, thì làm sao có tiền lệ để mà bắt chước? Thời trước nếu không có cô, bà nào dám tiên phong leo lên xe đạp, thì bây giờ đàn bà đi bộ cho rã cẳng ra. Ngày nay, còn có ai xì xầm khi thấy các cô, các bà đi xe đạp, xe gắn máy và lái xe hơi đâu?
– Sao anh bắt em phải làm cái việc khác đời, cho tội cho nghiệp em. Em đâu phải là hạng người thừa gan dạ, để có thể phớt lờ dư luận, khen chê của thế gian ?
Ông Tư trả lời với giọng rất bình tỉnh:
– Chỉ là ước mong nhỏ nhoi cuối cuộc đời của anh, mà em cũng không giúp anh được sao? Ai có nói gì, thì em cứ bảo đó là ý nguyện của anh trước khi chết. Mà có lẽ, mọi người đều biết anh muốn như vậy, em khỏi cần giải thích cho ai. Em không làm theo ý nguyện, anh chết không nhắm mắt, làm sao linh hồn siêu thoát? Như thế, em không sợ anh về quấy phá em mãi sao?
Nghe đến đây, thì bà Hoa tái mặt. Bà vốn sợ ma, sợ người chết, sợ bóng tối, sợ sự thiêng liêng. Bây giờ ông chồng còn sống, bà có thể lấn áp, bắt nạt ông được, chứ sau khi ông chết rồi, thì bà phải chịu thua, phải sợ ông. Ông Tư biết tính vợ, nên đem ma quỷ ra mà dọa trước, may ra sau khi ông chết, thì bà chịu theo lời ước nguyện của ông.
Nếu có ai biết ông Tư đang cận kề cái chết mà ái ngại cho ông, thì ông cười vui mà an ủi họ – chứ không phải là họ an ủi ông – rằng, nếu tin theo đạo Chúa, thì khi chết được về thiên đàng, ngồi dưới chân Chúa, sung sướng thế sao mà ai cũng sợ chết? Nếu theo đạo Phật, thì khi chết cũng sẽ về Tây Phương Cực Lạc, vĩnh cửu an bình, thì mừng vui chứ sao lại bi ai? Và nếu nói theo đức Đạt Lai Lạt Ma, thì cái xác thân ở trần gian, có thể ví như bộ áo quần ta mang, khi nó đã sờn cũ, xấu xí, rách rưới mục nát rồi, thì nên bỏ đi, mà mang bộ áo quần khác, đại ý nói đi đầu thai kiếp khác, mang thân xác mới hơn.
Ông Tư nói với bạn rằng, thân xác ông bây giờ như cái quần đã mục mông, rách đáy, không còn che được cái muốn che, thì phải bỏ đi, không xài nữa là hơn. Bởi vậy, ông bình tỉnh đón chờ cái chết cận kề. Khi biết ông bị ung thư sắp chết, thì phút đầu tiên, ông lặng người đi. Nhưng rất mau sau đó, ông nghĩ ra rằng bây giờ chỉ còn hai con đường để lựa chọn.
Một là rầu rĩ bi ai, than thân trách phận, oán thán trời đất, làm cho những ngày ngắn ngủi còn lại trở thành u ám, khổ sở, muộn phiền.
Hai là bình tỉnh chấp nhận điều không thể tránh được với thái độ tích cực, lạc quan, vui vẻ. Làm cho những ngày còn lại thành tươi vui, tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Khi ra đi sẽ không có chút tiếc thương vướng bận.
Ông chọn con đường sau, nên không buồn bả, không hoang mang, không bi ai. Ông thấy cuộc đời bỗng đáng yêu hơn, đẹp hơn. Ông mở lòng vui vẻ đón nhận từng thời khắc, từng ngày còn lại. Mỗi sáng dậy, ông ca hát nhạc vui, và nói chuyện khôi hài cùng vợ con. Ông cố làm đẹp lòng mọi người, vì ông nghĩ rằng, sau khi nhắm mắt nằm xuống, thì dù có muốn tử tế với những người thân thương, cũng không còn làm được nữa.
Ban đầu, vợ con, gia đình, ai cũng ái ngại, nên cư xử tế nhị, dè dặt, gượng nhẹ với ông. Về sau, thấy thái độ bình tỉnh của ông, mọi người quên đi chuyện ông sắp xa lìa cõi đời nầy, mà cư xử với ông không khác gì người bình thường. Đôi khi bị vợ gắt gỏng, bị con giận hờn, bị bạn bè to tiếng, ông không buồn giận, mà cảm thấy tức cười, và thấy thương họ hơn.
Ông Tư dặn thêm vợ rằng đừng đăng báo, không đăng cáo phó gì cả. Đừng làm rộn, bận trí bà con gần xa, buộc họ phải thăm viếng. Không nên để phiền ai phúng điếu chia buồn. Ông đưa tờ báo cho bà, và nói:
– Em nhìn vào mấy cái cáo phó nầy đây, đọc thấy buồn cười : “Chúng tôi đau đớn báo tin cho thân bằng quyến thuộc: Ông Nguyễn Văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào ngày , tháng, năm, hưởng thọ 82 tuổi…” Được Chúa gọi thì phải vui mừng, sung sướng, chứ sao lại đau đớn báo tin ? Về với Chúa là khổ lắm sao? Có đi tù cải tạo đâu mà đau buồn? Đáng ra phải cáo phó bằng câu : “Chúng tôi hoan hỉ báo tin cùng thân bằng quyến thuộc rằng, Ông Nguyễn văn Mỗ đã được Chúa gọi về vào ngày, tháng, năm,..”. Và đây, một cáo phó khác, cũng “khóc báo” với thân bằng quyến thuộc là thân nhân chúng tôi đã về cõi Phật. Về cõi ma vương quỷ sứ mới khóc báo, chứ về cõi Phật, sướng quá, mà khóc cái nỗi gì?”
Bà Hoa nhăn mặt nói:
– Anh đừng chi li bắt bẻ từng câu từng chữ . Đó là một lối nói thôi. Vì có ai biết chắc đi về đâu mà dám vui, buồn. Nhưng cứ cho là về thiên đàng, cực lạc, về với Chúa Phật, cho người sống an lòng. Không lẽ báo tin ông nội tôi được quỷ sứ rước đi rồi. Dù sống có gian ác đến đâu, khi chết cũng có quyền hy vọng về nơi lạc phúc, bình an.
Ông Tư lắc đầu nói tiếp:
– Em có thấy ông cụ Trương nằm liệt giường hai năm, không cử động được, như bị hành hình, cả nhà lao đao lận đận chăm sóc. Hai vợ chồng bác Thu con cụ, vì khổ nhọc quá, gây gỗ nhau, gia đình suýt tan vỡ.
Khi cụ mất, cả nhà thở phào sung sướng cho cụ, và cho mọi người trong gia đình. Thế mà khi cáo phó, cũng đau đớn báo tin. Bà con bạn bè đăng báo chia buồn, cũng là vô cùng thương tiếc, vô cùng đau đớn. Tang gia mừng, mà bà con lại chia buồn. Bà con muốn cụ nằm đó mãi, để khổ thân cụ, khổ con cháu cụ lâu dài hơn nữa hay sao? Hay là họ không phải khổ cực chăm sóc cụ, không phải đau lòng khi thấy cụ nằm liệt ra đó, nên cụ chết họ buồn đau? Bỡi thế, khi anh chết, anh không muốn cáo phó, không muốn ai phân ưu chia buồn. Chết cũng là một tiến trình của tự nhiên của trời đất, thì có chi mà phân ưu, chia buồn. Có ai sống mãi được?
Bà Hoa không đồng ý, nói lớn:
– Mất mát nào mà không đau buồn? Dù biết chắc rằng, ông cụ Trương chết là thoát được khổ đau đang hành hạ. Nhưng khi cụ mất, cả nhà cũng buồn vì mất cụ, mà vui vì cất đi được gánh nặng, bớt được mối thương tâm khi thấy người thân yêu của mình khổ cực nằm đó.
– Thế thì khi cụ mất, chắc chắn cả nhà vui nhiều hơn buồn, mừng nhiều hơn tiếc. Không ai dám nói mừng khi thấy thân nhân mình chết, vì sợ thiên hạ hiểu lầm, tiếu đàm. Thế thì đừng giả dối, nói là đau đớn, tiếc thương, mất mát. Mất cái gì mới ngại, chứ mất cái khổ đau hành hạ, thì cầu cho mất sớm, mất đi càng nhiều càng mau, càng tốt. Anh nghe nói người Lào có quan niệm rất hay về lẽ sống sự chết. Khi trong gia đình có người chết, họ không bao giờ khóc lóc rầu rĩ, mà bình tỉnh an nhiên, chắc rằng họ đã thấm nhuần cái lẽ thâm sâu của Phật giáo, biết chết là giải thoát, rũ sạch nợ đời.
Bà Hoa hỏi:
– Hay là đời sống dân họ đau khổ lầm than quá, nên chết đi là khỏe chăng? Chết là hết lo cơm áo, khỏi đói khát bệnh tật?
Bà Hoa nghĩ là ông Tư không thương bà đủ nhiều, nên cứ thản nhiên trước cái chết cận kề. Bà không biết làm sao chịu nỗi cảnh cô đơn khi sống thiếu ông trên đời.
Ông Tư thường nói với bạn bè rằng, rồi ai cũng phải chết. Không chết sớm thì chết muộn. Không chết lúc ba bốn mươi, thì bảy tám chín chục tuổi cũng phải chết. Cuộc đời, có thể ví như một đêm, không đi ngủ lúc chín mười giờ, thì mười hai giờ, một giờ sáng cũng phải đi ngủ. Nếu đêm không vui, thì tội gì không đi ngủ sớm cho khỏe, mà phải thức để nỗi buồn gặm nhấm. Nếu đêm nay đau răng thì cố thức làm gì, ngủ sớm đi mà quên đau.
Nhiều người sống với thái độ như sẽ không bao giờ chết, cho nên tích tụ của cải, bao nhiêu cũng không vừa, làm nhiều điều không đúng, không phải. Bỡi vậy , khi biết mình sắp chết, thì hốt hoảng khóc lóc, bi ai, mà vẫn không tránh được. Nhiều vị vua chúa đời xưa cũng muốn sống đời, nên uồng thuốc trường sinh, mà ngộ độc chết sớm. Còn gia đình, thì thời gian đầu thấy thiếu vắng, mất mát, nhưng rồi sau cũng quen dần, vì phải lo lắng nhiều công việc khác trong một cuộc sống bình thường, không còn có thì giờ mà tiếc thương, mà bi ai. Phần người chết, buông tay là xong tất cả, bình yên vĩnh viễn. Không còn phải lo công việc làm ăn, lo cơm áo gạo tiền, không còn lo làm giàu, lo tích trữ của cải, không còn ghen tuông, giận hờn, không còn phải thức khuya học hành, hoặc viết văn làm thơ mệt nhọc, không còn theo đuổi mộng lớn mộng bé, không ưu tư dằn vặt vì thời thế, vì đất nước, quê hương… Bỏ hết. Tất cả cũng chỉ là tro bụi. Thiên hạ còn ngưỡng mộ, còn khen ngợi những anh hùng liệt sĩ trong lịch sử, nhưng chính các người nầy có còn biết gì nữa đâu? Cũng là một mớ xương khô mục nát, đâu có nghe, có cảm xúc, hân hoan, vui thú gì. Có ca ngợi, nhắc nhở thì để các thế hệ con cháu về sau noi gương người đi trước mà dìn giữ quê hương, mà sống cho đàng hoàng, cho nên người, đừng làm việc xấu xa đê tiện.
Ông Tư dặn vợ làm một đám tang đơn giản, không mở nắp hòm cho bạn bè thăm viếng nhìn mặt. Hát nhạc vui trong tang lễ, không khóc lóc, mà vui cười tự nhiên. Sau khi thiêu xong thì gởi tro xương về quê nhà, đừng xây mộ, đừng đắp bia.
Bà Hoa thì chỉ muốn làm giống như tất cả mọi người. Ai làm sao mình làm vậy trong khả năng tài chánh của gia đình. Bà không muốn làm khác ai, để họ có thể nghị dị, bàn ra nói vào, thêm thắt thêu dệt. Nhưng bà cũng không nỡ từ chối ước nguyện cuối cùng của ông. Hai người con của ông bà, đứa con gái đầu thì tán thành, muốn làm theo ý kiến cũa bố, đứa con trai phản đối, vì sợ thiên hạ chê cười. Ông nói với con : “ Con nên vì bố, không nên vì thiên hạ.”
Ông Tư xin nghỉ việc, đi thăm bà con họ hàng, đến đâu ông cũng nói chuyện khôi hài, vui vẻ, nồng nàn với bạn bè bà con, thức đêm, uống rượu, hát hò, ngâm thơ, ăn uống không kiêng cữ. Theo ông, thì kiêng cũng chết, mà không kiêng cũng chết, chết sớm hơn vài tháng, vài tuần, cũng chẵng nghĩa lý gì. Còn chẵng bao lâu nữa, kiêng cử làm chi cho khổ thân, cho đời mất đi một phần ý vị. Ông cho rằng, đã sống đến trên năm mươi tuổi là quá lời, quá đủ, không có gì để nuối tiếc. Thấy ông tươi vui, người biết ông có bệnh sắp chết, cũng quên mất là ông đang bệnh, người không biết bệnh trạng của ông, thì ông cũng không muốn nói ra làm gì. Ông đưa bà và hai con đi chơi một chuyến trên du thuyền. Ông tham gia các cuộc chơi tập thể trên du thuyền như hát hò, nhảy múa ca hát, tham gia các buổi hòa nhạc, uống rượu, cho đến khi mãn cuộc. Ông vui vẻ, bình tĩnh đến nỗi nhiều khi bà quên mất là vợ chồng không còn bên nhau bao lâu nữa.
Ông Tư chuẩn bị tinh thần cho vợ, cho con, để chấp nhận một sự thực không tránh được. Chấp nhận với sự bình tỉnh, sáng suốt, không vui vẻ nhưng không bi ai. Có người nói cho ông Tư nghe về kinh nghiệm của những kẽ đã chết thật rồi, mà sống lại nhờ sự mầu nhiệm nào đó. Rằng khi chết, thì thấy mình đi vào một vùng ánh sáng lạ, rất hân hoan sung sướng, khoái cảm tràn trề. Bỡi vậy, nên người đã trãi qua cận tử, thì không cón sợ chết nữa, mà đón nhận như là một ân huệ của trời đất. Ông Tư không tin chuyện cận tử, vì ông vốn con người thực tế và lý trí, cái gì chưa kiểm nghiệm được thì chưa tin. Nhưng cho rằng, nếu được như vậy thì càng tốt. Nếu không được vậy, thì cũng thôi.
Cuộc đời ông Tư đã trãi qua nhiều giai đoạn sướng khổ. Chưa xong đại học thì bị kêu đi lính, tham dự những trận chiến kinh hoàng, ngày đêm trấn đóng nơi ma thiêng nước độc, đã từng bị bắt làm tù binh, đã vượt ngục. Khi miền Nam thua trận, phải đi tù nhiều năm. Đã sống trong chế độ hà khắc kìm khớp, bữa đói bữa no. Đã đi qua biển tìm tự do. Và ước nguyện rằng, được sống thêm một ngày trong xứ tự do, thì có chết cũng không có gì tiếc nuối. Thế mà ông đã sống thêm được nhiều năm trong một xã hội có tự do, dân chủ. Con người được pháp luật bảo vệ, tôn trọng. Ông biết ơn trời đất đã cho ông cái phần thưởng vô cùng quý giá đó trong nhiều năm qua.
Ông Tư chỉ là một người bình thường, có đủ cả tốt xấu. Có chút rượu chè, nhưng không ghiền và say sưa. Khi vui bạn vui bè, thì ai đến đâu, ông đến đó. Ông hòa đồng cùng đám đông. Thỉnh thoảng ăn nhậu cùng bạn bè, nói chuyện trời đất, vui chơi. Cờ bạc ông cũng có chút chút, từ xì phé, bài cào, cờ tướng, cờ vua, đi sòng bài. Nhiều khi ông xoa mạt chược cùng bạn bè, một mạch từ sáng thứ bảy cho đến chiều chủ nhật mới thôi, ai về nhà nấy để chuẩn bị cho ngày đi làm vào thứ hai.
Ông không mê, không lậm, biết dừng lại đúng lúc, không phải khi thua cờ bạc thì nóng mặt cố gỡ, và gỡ cho đến bán nhà. Trai gái ông cũng có, nhưng không làm hại đến ai, biết giới hạn của cuộc chơi. Không làm khổ vợ con, không gây khổ đau cho người khác phái. Thuốc lá, cà phê hàng ngày, ông không ghiền, nhưng cũng không bỏ hút thuốc. Ông Tư còn có chút máu nghệ sĩ . Ông thổi kèn hắc tiêu rất đạt, nên lâu lâu theo người bạn Mỹ gốc Phi Châu đến các hộp đêm thổi kèn chơi, không lấy thù lao. Ông có chân trong một ban nhạc tài tử, lâu lâu đi trình diễn ở các nơi công cọng. Ông Tư có sáng tác vài bản nhạc, nhưng không ai hát, và hát không ai nghe, không ai khen, nên ông không sáng tác nữa. Ông Tư cũng thích đọc truyện, đọc thơ. Ông cũng có làm thơ, nhưng bà Hoa là vợ ông, khuyên đừng để cho ai biết những bài thơ đó do ông viết, vì người sợ người ta cười lây cả bà. Ông nghe vợ chê, nãn lòng, không muốn làm thơ nữa. Tuy nhiên, có nhiều khi cao hứng, không cầm được cảm xúc, ông cũng làm thơ chơi, và dấu kín, vì sợ vợ đọc được chê bai.
Một người bạn của ông Tư cũng thích thơ phú, thường cùng ông ngâm vịnh khi nhàn tản, một hôm nghe ông nói về quan niệm cuộc đời, lẽ sống và cái chết. Ông nầy ngồi nghe mà đờ ra, và nói:
– Bác chờ chút, tôi lục tìm bài thơ của một ông bạn tôi, sao mà ý tưởng của bác với ông kia trùng nhau, như cùng học một sách. Kỳ lạ ghê. Lần đầu đọc bài thơ nầy, tôi khoái quá, phải xin ông bạn cho tôi mượn, chạy ra phố, chụp lấy một bản, còn cất giữ đây.
Ông Tư cầm lấy bài thơ dài, vừa đọc vừa gật gù, đọc xong ông vỗ đùi sung sướng, nói:
– Tuyệt. Hoàn toàn giống hệt suy nghĩ của tôi. Bác đem tôi đến giới thiệu tác giả bài thơ nầy đi. Bác xem đấy, đâu phải một mình tôi suy nghĩ khác đời đâu. Có nhiều người cùng một ý nghĩ, nhưng không dám nói ra, không dám thi hành. Đúng như cụ Nguyễn Công Trứ có viết là chỗ ta ngồi hiện tại, người xưa đã ngồi rồi. Tôi dốt chữ Hán, nhớ mang máng hình như là “Ngã kim nhật tại tọa chi địa, cổ chi nhân tằn tiện ngã tọa chi” . Mấy ông Tây cũng từng viết là dưới ánh mặt trời nầy, không có cái gì mới cả. Những suy nghĩ của tôi về cái chết, sự sống, người xưa cũng đã viết nhiều, tàng ẩn bàng bạc trong kinh Thánh, kinh Phật. Ngày xưa khi còn nhỏ, bố mẹ tôi gởi tôi vào học nội trú trường đạo Thiên Chúa, mỗi ngày mỗi đêm đều đọc kinh Thánh. Hồi đó tôi không hiểu hết ý nghĩa của kinh, tôi tưởng lầm đọc kinh là ngày đêm kêu gào sự xót thương của Chúa. Tuổi trẻ ngu muội và ngông cuồng nên tôi không có cảm tình với chuyện kinh kệ, nhưng khi lớn lên, đọc lại kinh Thánh, tôi thấy hay quá ông ạ. Lời kinh an ủi, vỗ về con người trong khổ đau, trong bước đường hoạn nạn, khi gặp cam go chìm nổi, tìm được yên bình để chịu đựng mà hy vọng qua khỏi nghịch cảnh.
Ông bạn cười, nói:
– Tôi thấy nhà bác thờ Phật, mà lại nói chuyện Chúa rành rẽ. Bác có theo đạo Cao Đài hay không?
– Không phải đạo Cao Đài, nhưng Phật Chúa gì cũng hoan nghênh. Bà xã tôi vẫn thường đi chùa. Ngày xưa khi còn trong quân đội, đóng quân giữa núi rừng, mẹ tôi gởi cho mấy bộ kinh Phật, không có sách vở, báo chí, buồn mà đọc chơi. Không có tâm tu hành, nhưng đọc mãi, nó thấm vào trong tư tưởng lúc nào không hay. Bỡi vậy, tôi có quan niệm rất rõ ràng về sự sống, cái chết, và bình tỉnh đón nhận như một lẽ thường của trời đất, tạo hóa.
Hai người đang nói chuyện, thì có bà bạn ghé chơi. Bà nầy yêu cầu ông Tư và bạn ông đóng tiền để mua đất chôn cất và xây mộ cho một người đồng hương Việt Nam nghèo mới chết. Gia đình không đủ tiền để làm ma chay và mua đất chôn ở nghĩa trang. Ông Tư móc ví, đóng ba chục đồng, và nói:
– Kêu gọi thì tôi đóng tiền, chứ thực tình trong lòng tôi nghĩ khác. Chết thì hỏa thiêu là đẹp nhất, tốt nhất và lại vệ sinh. Chôn xuống đất cho dòi bọ nó rúc rỉa, cho sình thối chứ có được gì. Một vạn cái xác, mới có được một cái không thối rữa, mà cũng khô đét nằm nhăn răng ra, hôi hám xấu xí. Nằm chật chội trong tối tăm âm u, dưới đất lạnh lẽo, chứ có sung sướng gì đâu. Rồi lâu ngày, thịt da cũng rữa, xương cũng mục. Được bao nhiêu năm? Mà cứ nghĩ kỹ xem, nếu mỗi người chết phải có một nấm mồ chừng hai thước vuông, thì trên thế giới nầy từ triệu năm trước đến nay, và nhiều triệu năm sau nữa, tỉ tỉ người đã chết và sẽ chết, lấy đâu ra đất mà chôn. Không lẽ cả thế giới nầy chẵng còn một tấc đất mà trồng trọt, nhịn đói chết hết sao? Nhiều xứ văn minh hiện nay, người ta thiêu xác. Bên Nhật, bên Tàu, Ấn Độ và nhiều xứ khác nữa, người chết được hỏa thiêu. Đạo Phật chính tông, thì các tăng ni đều được hỏa táng, nhưng những người theo đạo Phật nửa vời, thì lại chôn cất. Bày đặt ma chay linh đình cho thêm tốn kém.
Bạn ông Tư hỏi:
– Có phải người theo đạo Chúa không dám hỏa táng? Nghe đâu họ tin có ngày phán xét cuối cùng, và được sống lại. Bỡi vậy nên phải giữ thân thể, không muốn thiêu tan thành tro bụi.
Ông Tư cười lớn nói:
– Chờ đến ngày phán xét cuối cùng, thì sắt đá cũng đã mũn ra tro bụi, nói chi đến cái thân xác mong manh? Có lẽ những kẽ mê tín, kém hiểu biết, diễn dịch sai ý nghĩa của kinh Thánh chăng? Mà dù cho xương cốt có còn, thì cũng chỉ là bộ xương cũ mục, làm sao mà sống lại trên bộ xương đó được?
– Nghe đâu các nghĩa trang cũng chỉ bán đất trong vòng một trăm năm thôi- Bà bạn bàn thêm – Sau một trăm năm thì không biết họ có đào lên, đem chôn ở hố tập thể, hoặc đem thiêu đốt đi chăng? Nhưng khi mua đất chôn, thân nhân, không nghe ai nói đến điều nầy. Mà dù cho chủ nghĩa trang có hứa miệng là bán đất vĩnh viễn, thì sau một trăm năm, họ đào bỏ đi, cũng chẵng ai hoài công đi kiện. Lời hứa trăm năm trước con cháu không nghe, không còn chứng cớ, cả người hứa hẹn lẫn người nghe hứa hẹn, đã chết từ lâu. Mà có lẽ con cháu cũng vì lo làm ăn, sinh kế, đi tứ tán, không ai còn đoái hoài chi đến mấy ngôi mộ của tiền nhân trong các nghĩa trang đây đó.
Bạn ông Tư nói:
– Trong phim tài liệu về Tây Tạng, ở đó đạo Phật là quốc giáo, ông Phật sống cai trị dân như vua. Khi có người chết, thì họ quàng dây kéo lê lên núi, sau đó mấy ông chuyên môn chặt xác chết ra nhiều khúc, và ném cho chim kên kên ăn. Trông khiếp lắm. Không biết họ làm như thế, có đau lòng thân nhân ? Rõ như câu nguyền rủa ở xứ mình là “ chim tha quạ rỉa”.
– Chẳng có đau lòng chi cả – Ông Tư bàn thêm – Bên đó toàn đá núi cứng. Muốn đào đá ra làm huyệt mộ cũng quá cực khổ. Thân nhân người chết, dẫu có muốn chôn cất đến mấy cũng không ai làm nỗi việc đó. Cho chim ăn là tiện nhất. Có điều, không biết làm sao chim kên kên không lây bệnh người chết, biết bao nhiêu là bệnh nan y, vi trùng, vi khuẩn. Bỡi thế, nên tôi cho hỏa thiêu là sạch sẽ và tiện lợi nhất.
Câu chuyện bàn rộng đến phong trào Việt Kiều về quê xây lăng mộ cho thân nhân, cho tổ tiên, đến nỗi có nhiều làng thi đua xây cất cho nguy nga, cho to lớn. Thấy lăng mộ người khác lớn hơn, thì đập cái cũ ra, xây lại cho lớn, cho đồ sộ hơn. Có nơi người ta đặt tên là Làng Ma, vì toàn cả lăng mộ. Ông Tư cho rằng, xây lại mồ mả cho tổ tiên để báo hiếu, cũng là một hành động tốt, không có chi sai trái. Nhưng thi đua nhau xây và xây cất có tính cách phô trương thì chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Liệu những phần mộ kia đứng vững được bao nhiêu năm, và còn được con cháu chăm sóc đến bao giờ? Rồi cũng có ngày trở thành hoang phế, chẵng ai đoái hoài đến, mà mục rữa với thời gian. May ra, những nơi thiêng liêng như đền quốc tỗ Hùng Vương, lăng mộ các bậc anh hùng giữ nước, dựng nước, mới được con cháu tiếp tục tu sửa chăm nom. Thế mà cũng có còn tả tơi, tàn tạ, không ai chăm nom. Huống chi mình, là thứ thường dân, vô danh tiểu tốt, chưa làm được gì. Chưa kể những kẽ là tội đồ của dân tộc, bày đặt xây lăng ướp xác, như các ông lảnh tụ cọng sản từ Âu sang Á, từ từ rồi mồ mã cũng bị phá bỏ , san bằng. Bỡi thế, ông Tư dặn vợ con đừng xây mộ, tạc bia cho ông làm chi.
Ông Tư mượn bài thơ của ông bạn về đánh máy và sắp xếp lại cho đẹp, in ra nhiều bản, phóng ra một bản lớn, để dành khi ông chết sẽ sử dụng.
Chỉ bốn tháng, sau khi được báo tin ung thư, ông Tư qua đời mà không đau đớn nhiều, không dùng hóa học trị liệu trước khi chết. Có người mách cho ông nhiều loại thuốc ngoại khoa, ông cũng dùng thử. Trong giới bạn bè thân tình, có người nói là ông Tư đã tự chọn lấy con đường ra đi nhẹ nhàng, không để bệnh hoạn hành hạ trước khi chết. Ông Tư thường đùa rằng, còn nước thì còn tát, biết là dù có tát thì thuyền cũng chìm, thì quẳng gàu đi cho đở mệt trước khi thuyền chìm.
Bà con bạn bè đến viếng tang ông Tư tại nhà, khi bước vào cỗng, họ cố sửa soạn lại bộ mặt cho có vẽ buồn rầu, nghiêm nghị, để hợp với cảnh tang ma, dù trong lòng họ không có chút bi ai nào. Nhưng họ nghe có tiếng nhạc vui đang rộn rã vẵng ra từ bên trong, hòa với tiếng nhạc là tiếng cười vui vang vang, tiếng ồn ào. Người nào cũng giật mình, vội vả xem kỹ lại số nhà, sợ đi lầm.
Vào nhà, mỗi khách viếng tang được phát một tờ giấy màu hồng, bên trên ghi bài thơ “ Sau Khi Tôi Nhắm Mắt”. Bài thơ cũng được chụp phóng lớn, dán trên tấm bảng che kín cả một bức tường. Khách và chủ đang vui vẻ chuyện trò, cười đùa. Không thấy quan tài ông Tư đâu cả. Trên bệ thờ có cái ảnh ông Tư phóng lớn, miệng cười toe toét, tóc bù gió lộng. Trước tấm ảnh có cái hộp vuông chứa tro xương của ông Tư. Tiếng nhạc vui vang vang từ máy hát. Bài thơ in đậm nét:
Sau Khi Tôi Nhắm Mắt.
Khi tôi chết, viếng tang đừng buồn bả
Cười cho to, kể chuyện tếu vui đùa ,
Trong sáu tấm biết chắc tôi hả dạ,
Lên tinh thần, ấm áp buổi tiển đưa,
Nếu làm biếng, cứ nằm nhà thoải mái
Viếng thăm chi, vài phút có thêm gì ?
Mắt đã nhắm. Lạnh thân. Da bầm tái .
Dẫu bôi son, trát phấn cũng thâm chì .
Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó,
Ai thay da mãi mãi sống trăm đời .
Kẽ trước người sau, xếp hàng xuống mộ
Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi .
Nếu có khóc, khóc cho người còn lại,
Bỡi từ nay thiếu vắng nỗi đầy vơi .
Cũng mất mát, dáng hình , lời thân ái
Tựa nương nhau, hụt hẫng giữa đất trời .
Đừng đăng báo, phân ưu lời cáo phó
Chuyện thường tình, phí giấy có ích chi ?
Gởi mua gạo, giúp người nghèo đói khó
Dịu đau buồn những kiếp sống hàn vi,
Trỗi nhạc vui cho người người ý thức,
Cuộc nhân sinh sống chết cũng tương đồng,
Khi nằm xuống, xuôi tay và nhắm mắt
Thì đau buồn hạnh phúc cũng hư không .
Đừng xây mộ, khắc bia ghi tên tuổi
Vài trăm năm hoang vắng, chẳng ai hoài .
Vũ trụ vô cùng, thời gian tiếp nối,
Tỉ tỉ người đã chết tự sơ khai
Khi tôi chết đừng ma chay đình đám,
Hỏa thiêu tàn, tro xác gởi về quê
Dẫu bốn biển, cũng là nhà, bầu bạn
Trong tôi còn tha thiết chút tình mê
Thì cũng C, H, O, N kết lại
Nắm tro xương hài cốt khác nhau gì
Nhưng đất mẹ chan hòa niềm thân ái
Cho tôi về, dù cát bụi vô tri.
Khi đọc xong bài thơ, có người thì mĩm cười, có người vui hẵn, và nói chuyện oang oang. Họ cho rằng bài thơ đã nói hết ý nguyện của người chết. Người chết không muốn bạn bè buồn rầu, thương tiếc, thì việc chi mà lại làm bộ, gượng gạo tạo ra nét buồn khổ trên mặt.
Vợ con người chết cũng không tỏ vẽ buồn rầu, mà cũng không hớn hở. Không một tiếng khóc lóc, thở than. Nhạc vui vẫn dồn dập phát ra từ máy vang dội. Khi khách đã đến chật nhà, và đúng giờ cử hành tang lễ, bà vợ ông Tư và đứa con trai mang áo quần trắng đứng chắp tay bên bàn thờ, cô con gái đứng bên tấm ảnh ông, cầm máy vi âm nhoẻn miệng cười và nói:
– Thưa các cụ, cô bác chú dì, bà con bạn bè thân thiết xa gần, chúng tôi xin cám ơn quý vị đã có lòng đến viếng tang Ba chúng tôi. Tang lễ nầy làm theo ý nguyện của người quá cố. Không làm tang lễ theo tục lệ bình thường, vì sợ trái với ước vọng cuối cùng của Ba chúng tôi. Chúng tôi xin nhận lấy mọi lời trách móc nếu có từ bà con bạn bè. Ba chúng tôi đã bình tĩnh và vui vẻ đón cái chết như một sự trở về không tránh được. Trong những ngày cuối của cuộc đời, Ba chúng tôi rất vui, chuẩn bị kỹ cho gia đình và cho chính ông. Ông đã dặn dò chúng tôi, không nên khóc lóc, không nên buồn rầu, vì sự thực không có chi đáng buồn cả. Ông dặn chúng tôi vặn cuốn băng sau đây cho bà con cô bác nghe.
Người con gái đến bên bàn thờ, bật máy , có tiếng ông Tư cười hăng hắc vui vẻ, làm một số người không cầm được, cũng cười theo. Một vài bà yếu bóng vía sợ xanh mặt. Sau tiếng cười chào, thì có tiếng ông Tư đọc bài thơ dán trên tường, giọng đọc rất chậm rãi, rõ ràng, như đang nói chuyện thủ thỉ với bạn bè. Mọi người im lặng lắng nghe, người thì nghiêm trang, người thì mĩm cười. Giọng Huế của ông Tư đọc chậm và ngân dài những đoạn ông đắc ý : “Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó . Ai thay da mãi mãi sống muôn đời, Kẽ trước người sau xếp hàng xuống mộ, biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi.” Cuối cùng, có một tràng cười ha ha của ông Tư để chấm dứt bài thơ. Sau bài thơ, có ba ông người Mỹ, hai ông da đen, một ông da trắng, cầm đàn và kèn trỗi lên mấy khúc nhạc vui, các ông nhún nhẫy uốn éo, nhiều lúc dậm chân xuống sàn. Ba ông cùng lúc lắc, làm hàng một, đi quanh phòng khách, như múa lượn trước bàn thờ ông Tư. Những ông nầy, là bạn chơi nhạc với ông Tư tại các quán ca nhạc ban đêm.
Bỗng nhiên, bà chị ông Tư nhào ra, lăn lộn trước bàn thờ mà khóc lóc gào lớn:
– Cậu Tư ơi là cậu Tư. Chúng nó đem cái chết của cậu ra mà bêu rếu họ hàng. Vợ cậu muốn đi lấy chồng sớm nên bày ra cái cảnh chướng tai gai mắt nầy. Con cậu cũng là thứ bất hiếu bất mục, cha chết mà không có một giọt nước mắt, còn cười nói lung tung. Chỉ có tôi là chị câu, thương cậu thật tình thôi, ruột đứt lòng đau, nên khóc than đây.
Ông chồng chạy đến ôm bà kéo ra, và nhỏ nhẹ giãi bày. Bà vùng vằng và càng khóc lớn hơn, xỉ vả bà Tư những câu tục tỉu nặng nề. Bà Tư ôm mặt khóc lóc. Bà chị chồng nói lớn: “Mai mốt chúng mày chết, bà đến phóng uế lên hòm chúng mầy”. Nhiều người bà con đến phụ ông chồng lôi bà chị ông Tư ra xe chạy đi.
Khách viếng tang lảng ra, và có người lẵng lặng ra về không chào hỏi ai, vì sợ gia quyến ngượng ngùng. Cô con gái ông Tư đứng ra xin lỗi mọi người vì chuyện không may, không vui vừa xẫy ra.
Một bạn thân của ông Tư, quen nhau từ thuỡ trung học, đại diện bà con, đến trước bàn thờ, vỗ vào hộp tro xương, cười ha hả và nói:
– Tư ơi, ông là số một rồi đó, chả có ai bằng ông. Ông hiểu tận tường lẽ huyền vi của tạo hóa. Sống cũng vui, mà chết cũng vui. Sống cũng dám làm, mà chết rồi cũng dám làm, và làm được. Tôi cũng ước mong rằng, sau khi chết, vợ con làm cho tôi một đám tang như thế nầy, thì vô cùng sung sướng. Tưởng ông nói đùa chơi, ai ngờ làm thật.
Một vị mục sư là bạn thân của gia đình, cũng đến trước bàn thờ, và đoan chắc rằng bây giờ ông Tư đã được về với Thiên Chúa. Ông cho rằng thái độ của ông Tư trước cái chết rất sáng suốt, đáng khâm phục, và đáng được mọi người noi theo. Một vị sư già, có bà con họ hàng với ông Tư, đã từng viết nhiều sách Phật và rao giảng đạo từ bi, nói trước linh vị :
– Bần đạo không cần đọc kinh cầu siêu cho thí chủ. Bỡi linh hồn thí chủ đã thực sự siêu thoát trước khi chết. Thí chủ không vướng bận cõi trần, không hệ lụy vào cái thân xác tạm bợ. Thanh thản ra đi như kẽ đi chơi, thong dong, dễ dàng. Thí chủ đã hiểu thấu đáo cái lẽ vô thường trong đạo pháp.
Mọi người ra về, lòng nhẹ nhàng, tưởng như đi trong mơ. Từ phía nhà ông Tư, còn vang vọng nhạc vui đưa tiển đám tang khách.
Sau tang lễ, bà Hoa vợ ông Tư thở phào. Bà vui mừng vì đã làm được đúng lời căn dặn của chồng mà không bị tai tiếng. Bà chỉ sợ tai tiếng thôi. May mắn, đa số bà con đều tán thành nghi thức tang lễ, và nếu không tán thành, họ cũng im lặng, chỉ có bà chị ông Tư gây rắc rối thôi.
Nắm tro xương của ông Tư được vợ con gói kỹ bốn năm lớp, bỏ vào hộp bằng chất nhựa dày, để cho khỏi vỡ, rồi gởi bảo đảm về Việt Nam.
Chiếc xe chở hàng của hãng vận chuyển bị tai nạn trên đường ra phi trường. Xe rơi từ cầu xa lộ cao ba từng xuống đất, thùng xe vở nát, hàng hóa tung vung vãi, rách nát, cháy xém. Anh tài xế gảy hết tay chân và xương sống, hấp hối. Người ta đồn rằng anh tài xế buồn vì bị vợ cắm sừng, đã uống rượu say xỉn, không điều khiển được tay lái. Cái hộp tro xương của ông Tư bị rách và cháy xém mất một phần địa chỉ, được gởi lầm đi ngao du qua xứ Nambia bên Phi Châu. Cô con gái ông Tư hỏi tin tức bên nhà hàng ngày, qua liên mạng máy vi tính, về cái hộp tro xương, mãi đến hai ba tháng vẫn chưa nhận được. Bà Hoa viết nhiều thơ khiếu nại hãng chuyên chở. Họ trả lời là sẽ bồi thường cho bà hai trăm sáu mươi tám đồng. Bà Tư khóc lóc, thuê luật sư đâm đơn kiện. Sáu tháng sau, nhờ còn có địa chỉ người gởi, nên cái hộp tro xương được hoàn trả cho gia đình, với ghi chú là không có địa chỉ người nhận. Bà Hoa mừng ôm cái hộp mà khóc ròng.
Lần nầy, bà Hoa quyết định tự tay đem hộp tro xương ông chồng về tận Việt Nam. Bà sợ thất lạc thêm lần nữa, thì tấm lòng hoài vọng quê hương của chồng bà không được mãn nguyện, và bên kia cõi đời, ông Tư không yên ổn mà an giấc ngàn thu.
Những dấu hiệu dễ bị bỏ qua
Một sáng cách đây khoảng 2 năm, ông Lý Kiến Trúc, 65 tuổi, một nhà báo ở tiểu bang California, thức dậy như thường ngày trong tư thế ngủ quen thuộc một tay vắt trên trán và một tay để sau đầu. Nhưng hôm ấy, khác với mọi ngày, ông thấy cánh tay trái của mình tê tê một cách khác thường khi thức giấc. Nghĩ chắc do thói quen để tay sau đầu là nguyên nhân gây ra tê tay, ông vẫn đi làm bình thường và không để ý đến triệu chứng khác thường. 6 tiếng sau, cảm giác tê tăng dần, ông Trúc chóng mặt và ngã xuống sàn bất chợt. Ông được đưa ngay vào bệnh viện cấp cứu. Kết quả mà bác sĩ thông báo cho gia đình sau đó là ông bị tai biến nghẽn mạch máu não. Kinh nghiệm này làm ông Trúc không bao giờ quên và theo ông đây là kinh nghiệm quý báu không chỉ đối với riêng ông: “…Cái kinh nghiệm cho mình biết là cảm giác tê dại trong người, từ tay đến chân thì đó là triệu chứng của tai biến mạch máu não. Có thể sự nghẽn mạch máu từ não nó lan truyền đến tay trái hoặc chân trái hoặc là tay phải hoặc chân phải, thì chúng ta phải vào bệnh viện để xét nghiệm ngay… Mọi người nên lấy đó làm kinh nghiệm. Khi có cảm giác như vậy thì bất cứ giá nào cũng phải vào bệnh viện ngay lập tức càng nhanh càng tốt”.
Bác sĩ Ralph Sacco, phát ngôn viên của Hiệp hội tim mạch Hoa Kỳ cho biết: “…Tai biến mạch máu não có thể xảy ra với bất cứ người nào và vào bất cứ lúc nào, tuy nhiên chúng thường dễ xảy ra khi người ta lớn tuổi. Có nhiều nhân tố có thể dẫn đến tai biến mạch máu não. Một số có thể điều trị được ví dụ như cao huyết áp, tiểu đường và mỡ máu”.
Trước khi bị tai biến mạch máu não, ông Trúc cũng không biết mình bị huyết áp cao. Ông cũng không nhớ mình có đi khám bác sĩ định kỳ thương xuyên hay không. Ông chỉ cảm thấy rằng cơ thể mình hoàn toàn khỏe mạnh và bình thường cho đến cái ngày ông phải vào bệnh viện. Bây giờ nghĩ lại ông cho rằng mình đã may mắn được cứu chữa kịp thời: “…Nếu hôm  đó chú té xuống mà chỉ cần chậm trễ nửa tiếng và 1 tiếng đồng hồ nữa thôi thì chắc chắn hôm nay đã phải ngồi nói chuyện với Việt Hà bằng xe lăn rồi”.

Tai biến mạch máu não là gì?
Tai biến mạch máu não có hai loại chủ yếu đáng chú ý nhất là tai biến do nghẽn mạch máu não và tai biến do vỡ mạch máu não. Trong đó loại nghẽn mạch máu não xảy ra phổ biến  hơn cả và phần lớn các tài liệu hướng dẫn về cách nhận dạng và điều trị cũng chủ yếu tập trung vào loại này. Ngoài ra cũng có những người bị tai biến mạch máu não thầm lặng tức là loại tai biến nhỏ với triệu chứng chỉ kéo dài không tới 24 giờ đồng hồ rồi tự biến mất. Loại tai biến này cũng thường không gây ra những tổn thương lâu dài cho não.
Tai biến mạch máu não thường xảy ra khi huyết áp của người bệnh lên quá cao. Thông thường, huyết áp của một người khỏe mạnh dao động  trong khoảng 90/60 mm Hg đến 140/90 mm Hg tùy theo sức khỏe, giới tính và thời điểm đo. Tuy nhiên, theo Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ, khi huyết áp thường xuyên đến mức 140/90 mm Hg có nghĩa là đã bắt đầu có dấu hiệu cao huyết áp. Khi huyết áp lên đến trên 180/110 thì cần phải được chăm sóc y tế ngay lập tức để tránh tai biến mạch máu não.

 

Phòng tránh và cấp cứu người bị tai biến mạch máu não
Tai biến mạch máu não giờ đây xảy ra khá phổ biến và điều quan trọng là mọi người cần phải được trang bị những kiến thức cơ bản khi gặp một trường hợp tai biến đột xuất. Vậy nếu bạn gặp một người bị tai biến mạch máu não, bạn cần phải làm gì và không nên làm gì? Bác sĩ Ralph Sacco nói: “Điều quan trọng nhất là phải đưa người bị tai biến mạch máu não đến bệnh viện ngay lập tức. Khác với nhồi máu cơ tim, khi chúng ta có thể cho bệnh nhân dùng aspirin, với người bị tai biến chúng ta không thể cho họ uống aspirin tại nhà vì có thể là họ bị loại tai biến chảy máu não. Nếu đó là loại chảy máu não, Asprin có thể làm tình hình thêm tồi tệ. Cho nên điều quan trọng là để cho người bệnh thăng bằng và đưa họ đến bệnh viện ngay. Thời gian là hết sức quan trọng, cứ mỗi phút chần chờ thì chúng ta mất đi cơ hội được điều trị kịp thời mà chúng ta cần ngay lúc đó. Điều quan trọng là bạn phải đưa người bệnh đến bệnh viện gần nhất”.
Hiệp hội tim mạch Hoa Kỳ cũng khuyến cáo mọi người không nên theo những chỉ dẫn cấp cứu với người bị tai biến mạch máu não tại nhà theo phương pháp châm kim vào 10 đầu ngón tay đến chảy máu hay còn gọi là phương pháp Irene Liu. Theo các bác sĩ thì không có bằng chứng khoa học nào cho thấy đây là cách làm cứu được mạng của bệnh nhân trong khi có thể kéo dài thời gian chờ đợi để bệnh nhân được chăm sóc y tế kịp thời.
Mặc dù nguy hiểm, tai biến mạch máu não là bệnh hoàn toàn có thể phòng tránh. Theo các bác sĩ, một người muốn tránh bị tai biến mạch máu não, dù trẻ hay già, cũng nên bắt đầu một lối sống khỏe mạnh, đó là giảm ăn muối, giảm đồ béo, ngừng hút thuốc và tăng cường các hoạt động thể chất. Theo Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ, việc ăn quá nhiều muối và đồ ăn nhanh là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tai biến mạch máu não. Bác Suzanne Judd, chuyên gia dịch tễ dinh dưỡng thuộc đại học Alabama, thành viên Hiệp hội tim mạch Hoa Kỳ nói về những nguy cơ trong đồ ăn nhanh: “…Có 3 yếu tố chính trong chế độ ăn này dẫn đến nguy cơ tai biến mạch máu não tăng. Thứ nhất là muối, các đồ rán và chế biến sẵn thường có rất nhiều muối. Chúng ta biết là người Mỹ giờ đây ăn khoảng 3500 mg muỗi mỗi ngày, tức là cao hơn rất nhiều so với mức khuyến cáo. Chế độ ăn đồ rán có lượng muối từ 3,000 đến 4,000 mg muối. Ăn nhiều muối sẽ khiến bạn phải uống nhiều nước, làm tăng huyết áp, khi tim và não phải chịu huyết áp cao quá lâu, nó sẽ dẫn đến nhồi máu cơ tim và tai biến mạch máu não. Yếu tố thứ hai là chất béo bão hòa. Chúng ta đã biết từ nhiều nghiên cứu trước đây là chế độ ăn quá nhiều chất béo bão hòa sẽ gây nghẽn mạch máu não, từ đó dẫn đến ai biến mạch máu não và nhồi máu cơ tim. Yếu tố cuối cùng trong chế độ ăn này là nước ngọt. Đã có nghiên cứu gần đây từ Bắc Carolina và từ đại học Harvard cho thấy uống nước ngọt là làm tăng thêm năng lượng cho cơ thể không cần thiết vì khi mọi người uống các nước ngọt đó, họ không biết là họ đang có thêm năng lượng cho cơ thể. Chế độ ăn có nước ngọt làm cho bạn ăn quá nhiều, làm tăng cân, dẫn đến béo phì từ đó có thể bị tai biến mạch máu não”.
Một nghiên cứu gần đây được công bố tại Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ trong năm nay cho thấy có khoảng 2 triệu 300 ngàn người trên thế giới bị chết trong năm 2010 vì các bệnh tim mạch do ăn quá nhiều muối. Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ khuyến cáo mỗi người chỉ nên ăn không quá 1,500 mg muối mỗi ngày, mức này của Tổ chức Y tế thế giới là 2,000mg.
Theo bác sĩ Ralph Sacco, những người bị tiểu đường và hút thuốc đều có nguy cơ bị tai biến mạch máu não cao vì đây là hai yếu tố dẫn đến xơ cứng động mạch và khi động mạch bị xơ cứng thì có thể sẽ dẫn đến nghẽn mạch máu não. Người hút thuốc có từ 2 đến 4 lần nguy cơ tai biến mạch máu não cao hơn so với người không hút thuốc.
Với ông Lý Kiến Trúc, kể từ sau lần bị tai biến mạch máu não, ông đã chú ý hơn tới sức khỏe của mình. Ông uống thuốc đều đặn theo chỉ dẫn của bác sĩ, theo một chế độ ăn cân đối ít chất béo hơn và cũng năng tập thể dục hơn. Ông cho rằng đây là những yếu tố giúp ông giảm thiểu được nguy cơ bị tai biến mạch máu não trở lại do huyết áp cao.
Tai lieu tham khao neu muon tim hieu them ve stroke link: