Tre
Tên Việt: tre là ngà, tre gai Tên Hoa: 刺竹, 勒竹 (thích trúc, lặc trúc) Tên Anh: Kawayan bamboo, spiny/thorny bamboo Tên Pháp: bambou épineux Tên khoa học: Bambusa blumeana J. Schultes. [Arundarbor blumeana (Schult. & Schult. f.) Kuntze, Bambusa spinosa Roxb.] Họ: Cỏ, Lúa (Poaceae)
tre lồ ồ (Bambusa balcooa Roxb.)
tre lộc ngộc (Bambusa arundinacea (Retz.) Willd.)
...
Anh nhớ xót xa dưới tre là ngà
Gợn buồn nhìn anh, em nói : "Mến anh".
Mây lướt thướt trôi khi nắng vương đồi.
Nhớ em dịu hiền nắng chiều ngừng trôi.
(♫Nắng chiều - Lê Trọng Nguyễn)
Cây tre cho ta các vị thuốc:
1- Trúc diệp: chỉ lá tre bánh tẻ hoặc lá non của cây tre. Có tác dụng thanh nhiệt trừ phiền, sinh tân dịch, lợi niệu. Thường dùng chữa nhiệt tà gây tổn thương tân dịch, phiền táo, khát nước, miệng lưỡi lở loét, tiểu tiện sẻn đỏ. Tác dụng của lá bánh tẻ và lá non còn cuộn tròn (búp tre) tương tự như nhau, nhưng khi chữa các bệnh nhiệt ở phủ vị thường dùng lá, còn khi chữa bệnh nhiệt ở tạng tâm thường dùng búp.
2- Trúc lịch: là vị thuốc chế bằng cách chặt tre tươi, cắt thành từng đoạn, nướng lên và vắt lấy nước. Hoặc uốn cong cây tre non ngay tại bụi tre, phạt ngọn, buộc cọc ghìm vào miệng bình, lấy đuốc lửa đốt phần giữa, nước cốt - trúc lịch sẽ chảy dần vào bình. Có tác dụng thanh nhiệt, trừ đờm, định suyễn. Dùng chữa đàm nhiệt khái suyễn (hen suyễn do đờm nhiệt), trúng phong hôn mê, kinh giản, điên cuồng.
3- Trúc nhự (tinh tre): là vị thuốc chế bằng cách cạo bỏ vỏ xanh bên ngoài của cây tre, sau đó cạo lớp thân bên trong thành từng mảnh hay sợi mỏng. Có tác dụng thanh hóa nhiệt đàm, trừ phiền chỉ ẩu (chống nôn). Dùng chữa ho đờm vàng đặc, bồn chồn mất ngủ, nôn mửa ...
Ngoài ra, măng tre, cặn đọng trong đốt tre (thiên trúc hoàng) cũng có thể sử dụng làm thuốc.
Một số bài thuốc từ cây tre:
- Dự phòng viêm não B: Dùng lá tre, vỏ bí đao, lá sen, rễ cỏ tranh, mỗi thứ 9g, sắc nước uống thay nước trong ngày. Để dự phòng viêm não, mỗi tuần cần uống 1-2 ngày.
- Chữa sốt cao, mê man do viêm não: Dùng trúc lịch 30-50g, hòa với nước đã đun sôi, chia ra uống trong ngày.
- Chữa ho suyễn, hoặc trúng phong cấm khẩu: Gừng sống giã vắt lấy nước cốt 1 chén, hoà với 1 chén trúc lịch cho bệnh nhân uống dần.
- Chữa ho khan: Dùng lá tre 12g, rau má 12g, vỏ rễ dâu 12g, quả dành dành (sao vàng) 8g), lá chanh 8g, cam thảo 6g; nước 700-800ml , sắc còn 250-300ml, chia 2 lần uống trong ngày; cũng có thể tán thô, hãm vào phích uống dần. Dùng cho các trường hợp ho khan, đờm sát, cổ họng khô và ngứa, rêu lưỡi vàng mỏng.
- Chữa viêm màng phổi có tràn dịch: Lá tre 20g, vỏ rễ dâu 12g, hạt rau đay 12g, thạch cao 20g, hạt bìm bìm 12g, rễ cỏ tranh 12g, thổ phục linh 12g, bông mã đề 12g. Dùng 600ml nước, sắc còn 200ml; uống hết một lần trước bữa trưa 30 phút. Lại thêm nước, sắc lần thứ hai, uống trước bữa cơm chiều. Cùng với việt điều trị bằng kháng sinh, bài thuốc này có tác dụng hỗ trợ rất tốt.
- Chữa mất ngủ, tâm phiền, hồi hộp: Dùng trúc nhự 16g, mạch môn (củ cây tóc tiên) 16g, sắc nước uống trong ngày.
- Chữa nấc (do nhiệt): Dùng lá tre 20g, tinh tre 20g, thạch cao (nướng đỏ) 30g, gạo tẻ (rang vàng) 20g, bán hạ 8g, mạch môn (bỏ lõi) 16g, tai quả hồng 10 cái; nước 800ml, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống trong ngày. Thuốc này có tác dụng thuận khí, giáng hỏa, thích hợp với chứng nấc do nhiệt - kèm theo các triệu chứng người bứt rứt, khát nước, miệng hôi, tiểu tiện đỏ sẻn, đại tiện táo kết ... Không dùng cho chứng nấc do hàn.
- Chữa miệng lưỡi lở loét: Búp tre 15-20g, sinh địa 10g, mộc thông 10g, cam thảo 8g, sắc nước uống thay nước trong ngày. Bài thuốc có tác dụng "thanh tâm trừ phiền", dùng trong trường hợp Tâm kinh thực nhiệt, phiền táo, khát nước, miệng lưỡi lở loét, tiểu tiện vàng sẻn.
- Chữa đái ra máu: Lá tre 20g, mạch môn 20g, mã đề 20g, rễ cỏ tranh 20g, thài lài tía 20g, râu ngô 20g; nước 700ml, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống trong ngày. Thuốc này có tác dụng thanh tâm, lợi niệu, chỉ huyết (cầm máu), thích hợp với chứng tiểu tiện xuất huyết do nhiệt độc tích tụ ở bàng quang.
Để chữa mất ngủ, tâm phiền hồi hộp, dùng tinh tre 16 g, mạch môn (củ cây tóc tiên) 16 g, sắc nước uống trong ngày. Tinh trẻ là vị thuốc chế bằng cách cạo bỏ vỏ xanh bên ngoài của cây tre, sau đó cạo lấy lớp thân bên trong thành từng mảnh hay sợi mỏng.
Cây tre được sử dụng làm thuốc trong dân gian và đông y từ lâu đời. Nhiều vị thuốc được chế từ cây này. Chẳng hạn, tinh tre có tác dụng thanh hóa nhiệt đàm, trừ phiền, chống nôn; dùng chữa ho đờm vàng đặc, bồn chồn mất ngủ, nôn mửa.
Trúc diệp là lá tre bánh tẻ hoặc lá non của cây tre, có tác dụng thanh nhiệt trừ phiền, sinh tân dịch, lợi niệu. Nó thường được dùng chữa nhiệt tà gây tổn thương tân dịch, phiền táo, khát nước, miệng lưỡi lở loét, tiểu tiện sẻn đỏ. Tác dụng của lá bánh tẻ và lá non còn cuộn tròn (búp tre) tương tự như nhau; nhưng khi chữa các bệnh nhiệt ở phủ vị thì người ta thường dùng lá, còn khi chữa bệnh nhiệt ở tạng tâm thường dùng búp.
Trúc lịch là vị thuốc chế bằng cách chặt tre tươi, cắt thành từng đoạn, nướng lên và vắt lấy nước; hoặc uốn cong cây tre non ngay tại bụi tre, phạt ngọn, buộc cọc ghìm vào miệng bình, lấy đuốc lửa đốt phần giữa, nước cốt - trúc lịch sẽ chảy dần vào bình. Nó có tác dụng thanh nhiệt, trừ đờm, định suyễn; dùng chữa hen suyễn do đờm nhiệt, trúng phong hôn mê, kinh giản, điên cuồng.
Ngoài ra, măng tre, cặn đọng trong đốt tre (thiên trúc hoàng) cũng có thể sử dụng làm thuốc.
Một số bài thuốc từ cây tre
Dự phòng viêm não B: Dùng lá tre, vỏ bí đao, lá sen, rễ cỏ tranh mỗi thứ 9 g, sắc nước uống thay nước trong ngày. Để dự phòng viêm não, mỗi tuần cần uống 1-2 ngày.
Chữa sốt cao, mê man do viêm não: Dùng trúc lịch 30-50 g, hòa với nước đã đun sôi, chia ra uống trong ngày.
Chữa ho suyễn, hoặc trúng phong cấm khẩu: Gừng sống giã vắt lấy nước cốt 1 chén, hòa với 1 chén trúc lịch cho bệnh nhân uống dần.
Chữa ho khan: Dùng lá tre, rau má, vỏ rễ dâu mỗi thứ 12 g, quả dành dành (sao vàng) 8 g, lá chanh 8 g, cam thảo 6 g; nước 700-800 ml, sắc còn 250-300 ml, chia 2 lần uống trong ngày; cũng có thể tán thô, hãm vào phích uống dần. Dùng cho các trường hợp ho khan, đờm sát, cổ họng khô và ngứa, rêu lưỡi vàng mỏng.
Chữa viêm màng phổi có tràn dịch: Lá tre 20 g, thạch cao 20 g, vỏ rễ dâu, hạt rau đay, hạt bìm bìm, rễ cỏ tranh, thổ phục linh, bông mã đề mỗi thứ 12 g. Dùng 600 ml nước, sắc còn 200 ml; uống hết một lần trước bữa trưa 30 phút. Lại thêm nước, sắc lần thứ hai, uống trước bữa cơm chiều. Cùng với việc điều trị bằng kháng sinh, bài thuốc này có tác dụng hỗ trợ rất tốt.
Chữa nấc (do nhiệt): Dùng lá tre, tinh tre, gạo tẻ (rang vàng) mỗi thứ 20 g, thạch cao (nướng đỏ) 30 g, bán hạ 8 g, mạch môn (bỏ lõi) 16 g, tai quả hồng 10 cái; nước 800 ml, sắc còn 300 ml, chia hai lần uống trong ngày. Thuốc này có tác dụng thuận khí, giáng hỏa, thích hợp với chứng nấc do nhiệt - kèm theo các triệu chứng người bứt rứt, khát nước, miệng hôi, tiểu tiện đỏ sẻn, đại tiện táo kết... Không dùng cho chứng nấc do hàn.
Chữa miệng lưỡi lở loét: Búp tre 15- 20 g, sinh địa 10 g, mộc thông 10 g, cam thảo 8 g, sắc nước uống thay nước trong ngày. Bài thuốc có tác dụng "thanh tâm trừ phiền", dùng trong trường hợp Tâm kinh thực nhiệt, phiền táo, khát nước, miệng lưỡi lở loét, tiểu tiện vàng sẻn.
Chữa đái ra máu: Lá tre , mạch môn, mã đề, rễ cỏ tranh, thài lài tía, râu ngô mỗi thứ 20 g; nước 700 ml, sắc còn 300 ml, chia 2 lần uống trong ngày. Thuốc này có tác dụng thanh tâm, lợi niêu, chỉ huyết (cầm máu), thích hợp với chứng tiểu tiện xuất huyết do nhiệt độc tích tụ ở bàng quang.
Ngày xưa không có mỹ phẩm đắt tiền như bây giờ, không có bác sĩ thẩm mỹ chuyên hút mỡ căng da, các bà hoàng hậu, công chúa, cung tần mỹ nữ làm đẹp bằng cách nào?
Ông Ưng Viên bảo cách làm đẹp của các bà hoàng và cung tần mỹ nữ hoàn toàn bằng những thứ trong tự nhiên, không hề dùng bất cứ một thứ hóa chất nào nhưng hữu hiệu hơn nhiều so với các phương cách Âu - Mỹ hiện nay. Đơn giản và có hiệu quả nhất là bằng các chế phẩm từ cây tre.
Tác dụng: Làm săn cơ, khi cơ săn mỡ sẽ được đào thải qua hô hấp da; ba vị thuốc quý này còn làm ổn định mạch máu dưới hệ tiêu hóa, tác động đến hệ thần kinh thực vật, làm thông suốt kinh mạch, khiến cho cơ thể thon chắc, khỏe khoắn.Để chống dư thừa mỡ, nhất là vùng bụng, dùng kết hợp ba thứ: “trúc tạo”, “trúc nha” và “trúc nhự”. Ba thứ được trích lấy dịch, trộn ba thứ dịch ấy lại bôi lên xác trúc nhự đã lấy hết dịch. Đem chế phẩm này trải lên vạt giường tre, người nằm ép bụng xuống. Bên dưới, lấy than đốt lên xông, tốt nhất là dùng than ổi, thứ nhì là than đước.
“Trúc nhự” là dịch tre non, cách lấy khá đơn giản, dễ nhất là cắt sâu vào thân cây tre non ở vị trí hai phần ba cây tre tính từ dưới lên, sau đó bẻ cụp cây tre xuống, cột vào vị trí bẻ cụp một dụng cụ (ống tre hoặc chai lọ) để hứng dịch. Sau một đêm đã có dịch chảy ra dùng được. Trúc nhự có mùi thơm rất dễ chịu, vì vậy mà cơm lam ngon hơn cơm thường. Lấy dịch “trúc tạo” và “trúc nha” phức tạp hơn, chủ yếu bằng phương pháp đốt nóng lên.
Làm đẹp cho phụ nữ còn có một loạt các chế phẩm khác từ tre dùng để xoa, bóp hoặc làm các món ăn từ “trúc nữ”, “trúc liêu giao”, “trúc phấn”, “trúc bì”... Nhiều chế phẩm từ tre đặc trị bệnh phụ khoa cũng góp phần cho việc làm khỏe làm đẹp nữ giới.
Dân quê miền Trung mỗi khi bị sốt nóng lạnh thường lấy một đoạn tre tươi đốt lên hứng lấy nước uống. Ông Ưng Viên nói, thứ nước đó là “trúc lịch”, có tác dụng trị bệnh hư hỏa (cơ thể sốt cao nhưng trong người lạnh run) và chứng viêm sinh thực nữ... Dân gian băm cả đoạn tre bỏ vào ấm sắc uống cũng hạ được sốt. Cũng có thể băm nhỏ đoạn tre, gồm cả mắt, nướng lên ép lấy nước, cũng có tác dụng tương tự, thứ này gọi là “trúc lịch sái”.
Nếu là tre non nướng chín vắt lấy nước, gọi là “trúc liêu giao”, được dùng để bào chế mỹ phẩm, làm gia vị ăn uống, hương liệu xông. “Trúc liêu giao” kết hợp với trầm hương thiên nhiên, chè, nếp dùng để trị chứng đau một bên đầu, xây xẩm kinh niên, huyết áp cao lẫn huyết áp thấp, chứng tỳ vị hư hàn ẩu thổ ẩu tả. Nó cũng có thể dùng phối hợp với một số vị thuốc khác để trị chứng liệt dương, lãnh cảm, trị bệnh tim và thống phong.
Măng vòi tre đài nướng vắt lấy nước gọi là “trúc thượt”. “Trúc thượt” phối hợp với mật ong, chè và trầm hương tự nhiên dùng bào chế thuốc trị các chứng ung nhọt độc, mạch lươn (rò hậu môn) ở phụ nữ.
Nhánh tre đài chỉ có gai mà không có lá, có măng nứt ra, cả nhánh tre này gọi là “trúc lự”, dùng bào chế thuốc trị ban và thương hàn.
Cái vỏ tre cũng hữu dụng không kém. Phần ngoài cùng là “trúc phấn”, dùng làm mỹ phẩm, thuốc sát trùng và điều kinh nữ. Bóc đi lớp trúc phấn, còn lại là “trúc bì”, cũng dùng làm mỹ phẩm, làm thuốc trị vết thương và làm dịch bôi cho sinh thực nữ.
Ruột tre tươi gọi là “trúc ẩn”, chuyên trị bệnh phụ nữ (huyết trắng, nấm ký sinh...), có thể hấp cơm hoặc chưng với đậu đen. Ruột tre sau khi chưng với đậu đen, bào chế thành thuốc bôi hoặc dùng nấu canh với cá, phụ nữ ăn rất tốt. Ruột tre ngâm muối gọi là “trúc diêm”, ngoài việc chữa bệnh phụ khoa còn dùng bào chế thuốc trị viêm họng, trị liệt dương.
Hoa tre, gọi là “trúc ba” hoặc “trúc cái”, là vị thuốc chữa được nhiều bệnh. Trong hai loại tre làm dược liệu, chỉ có tre mỡ ra hoa, còn tre gai thì không (trong các loài tre khác có loài ra hoa quanh năm nhưng không có tác dụng chữa bệnh). Tre mỡ thường sống đến 60-70 năm, cây nào tồn tại đến cuối đời đều ra hoa, sau khi ra hoa thì tre sẽ chết.
“Trúc ba” là vị thuốc cấp trị hen suyễn, làm cắt cơn cho những người bị hen suyễn nặng. Nó còn đặc trị bệnh hôi miệng, chế phẩm thuốc từ hoa tre dùng ngậm trị được bệnh amidale đã viêm mủ mà kháng sinh không còn tác dụng. Đặc biệt, hoa tre xông cùng với trầm hương thiên nhiên có thể tái tạo khứu giác của người bệnh.
Như đã đề cập, cả cây tre có hoa (trừ hoa) đều được gọi là “trúc thạch”, nhưng nếu dùng toàn thân cây tre này, kể cả hoa, băm ra sắc thành thuốc, gọi là “trúc ngọc lộ”. “Trúc ngọc lộ” phối hợp với một số dược liệu khác bào chế thành thang thuốc chữa được căn bệnh “Lục mạch tuy đều hình nhục thoát tử vô sầu tuyệt” nan y nói ở phần trước.
Về căn bệnh nan y thứ hai “tam quan tuy tuyệt uất đàm bạo nộ”, có thể dùng “trúc nữ”, “trúc liêu giao”, “trúc liên hổ” bào chế với một số thảo dược khác, tất cả không quá 12 vị, nhưng các vị từ tre vẫn là vị quân (vị thuốc chủ đạo) để chữa trị.
“Trúc liên hổ” là chất thải trên mặt đất của một giống trùn ở dưới đất giữa bụi tre, chuối và mít. Ngoài công dụng nói trên, nó cũng được dùng hầm với thịt bê (lao nhục tử) có thể phối hợp trị bệnh lao sác.
Trong một bụi tre thường có những cây tre đực săn chắc, thường được chọn làm cán cuốc, làm đòn gánh, đòn xóc hoặc đan lát những dụng cụ lâu bền. Sở dĩ gọi là tre đực vì nó chỉ đứng một mình, dưới gốc không mọc măng, trên cây không có măng vòi. Cái mắt nào của tre đực bị côn trùng đục làm hỏng biến thành một cái rốn lõm sâu vào, cái mắt đó gọi là “trúc thị”. “Trúc thị” dùng làm thuốc trị ban, làm tan huyết khối và làm mỹ phẩm.
Đối với các dược liệu trị bệnh từ cây tre, dân tộc ta có hàng ngàn năm tích lũy kinh nghiệm, cho nên dân gian sử dụng rộng rãi tre trong ăn uống và chữa các bệnh thông thường, chỉ có lợi chứ hoàn toàn không có hại gì cho sức khỏe, vì toàn bộ cây tre không có bộ phận nào độc hại. Tuy nhiên, các vị thuốc từ tre bào chế cùng với các dược liệu khác để đặc trị, nhất là đặc trị các bệnh nan y, nhất thiết phải do thầy thuốc giỏi thực hiện, vì mặc dù tre không độc hại, nhưng do sự tương tác giữa các dược liệu với nhau, nếu không bào chế đúng cách đúng liều đúng lượng có thể dẫn đến kết quả không như mong muốn.
Tre là loại vật liệu bền vững và thân thiện với môi trường có tiềm năng cải thiện sự suy giảm ngày càng tăng của tài nguyên thiên nhiên trên thế giới. Các đặc tính vốn có của tre và những tiến bộ trong kỹ thuật sản xuất đã tạo nên các sản phẩm tiêu dùng có giá trị cao, có thể mang lại lợi nhuận lớn cho nhà đầu tư. Một số ưu điểm và lợi ích của tre như sau:
1. Phát triển nhanh: Tre phát triển nhanh chóng và có thể được thu hoạch trong vòng 3 đến 5 năm trồng, so với gỗ cứng phải mất đến 40 năm để trưởng thành và cho chất lượng tốt để khai thác.
2. Tài nguyên tre tự nhiên dồi dào: Có tới 37 triệu hec-ta rừng tre trên thế giới. Do vậy, có một nguồn cung cấp nguyên liệu dồi dào mà không cần chi phí nhiều để trồng bổ sung và không tốn công sức chăm sóc.
3. Lợi ích cho người nghèo: Một số rừng tre được giao cho người dân nghèo quản lý và khai thác, vì vậy những tiến bộ trong ngành công nghiệp tre sẽ đem lại nhiều hơn lợi ích và cơ hội thu nhập lớn hơn cho người nghèo.
4. Tính bền vững: Tre có thể được thu hoạch hàng năm và có khả năng tự tái sinh; trên thực tế việc khai thác có kế hoạch góp phần cho sự bền vững của rừng cũng như làm tăng năng suất trong tương lại.
5. Bảo về đất đai: Trồng rừng tre giúp cải tạo đất bạc màu, chống xói mòn. Rễ tre còn lại trong đất sau khi thu hoạch giúp giữ lại các chất dinh dưỡng và độ ẩm cho các vụ tiếp theo. Tre cũng bảo vệ hạn chế các thảm họa tự nhiên như lở đất.
6. Tỷ lệ sử dụng nguyên liệu cao: Không chỉ có thân cây, tất cả các bộ phận khác của cây tre có thể được sử dụng cho nhiều mục đích sử dụng khác nhau như măng cho thực phẩm, lá cho thức ăn gia súc, và cành cây dùng làm chổi và củi.
7. Hấp thụ khí nhà kính: Rừng tre hấp thụ khí nhà kính. Tre hấp thụ khí các-bon-nic và thải ra 35% lượng khí oxi vào khí quyển, nhiều hơn so với gỗ cứng.
8. Không cần phân bón, thuốc trừ sâu hoặc thuốc diệt cỏ cần thiết: Không giống như hầu hết các cây công nghiệp, tre không cần phân bón để phát triển mạnh. Cũng không giống như các cây trồng khác, tre không cần chăm sóc kỹ và việc chăm sóc không tạo ra lượng hóa chất dư thừa cho môi trường.
Hiện nay, mỗi ngày có tới hàng trăm nghìn mét vuông rừng đang bị tàn phá trên toàn thế giới. Chặt một cây gỗ sồi hay lim, ước tính cần đến 30-40 năm để có thể trồng được một cây gỗ thay thế. Một số loại gỗ tốt đôi khi cần nhiều thời gian hơn hoặc thậm chí không thể trồng lại được. Trong khi đó, cây tre chỉ cần 3 đến 5 năm có thể đạt chiều cao 8 mét và khai thác cho chất lượng tốt. Ngoài chu kỳ tái sinh nhanh của cây tre, việc trồng và khai thác tre cũng rất đơn giản, cho hiệu quả kinh tế cao, tạo công ăn việc làm cho nhiều người dân vùng trung du và miền núi. Ở Việt Nam, một trong những loài tre phổ biến và có giá trị kinh tế cao là cây Luồng.
TẠI SAO VÁN LÁT SÀN VÀ NỘI THẤT TRE?
Ván lát sàn và nội thất tre đem đến vẻ đẹp tự nhiên tương tự như các loại ván lát sàn gỗ tự nhiên. Hơn nữa ván lát sàn và nội thất tre là sản phẩm thân thiện với môi trường và bạn không cảm thấy việc trang trí cho ngôi nhà của mình gây ảnh hưởng đến môi trường thiên nhiên như việc sử dụng các loại ván sàn gỗ khi nguồn gỗ tự nhiên đang ngày càng cạn kiệt, nạn khai thác gỗ bừa bãi đang gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sống và gây ra nhiều thảm họa cho đời sống xã hội.
Ván lát sàn và nội thất tre đang được khách hàng ưa chuộng do tre có các đặc tính kỹ thuật riêng biệt như độ đàn hồi tốt, ít cong vênh, độ chịu mài mòn cao, sau khi được xử lý thì có thể ngăn cản được mọt. Tre cứng hơn gỗ sồi và có độ ổn định cao.
Sản phẩm từ tre thường được phân loại theo kết cấu ép và màu sắc. Tre ép ngang tạo ra sản phẩm có độ đàn hồi cao và phô bày được vẻ đẹp tự nhiên của cây tre với các vân họa tiết đặc sắc do sự khác biệt về màu sắc giữa các mấu tre và thân ống tre. Tre ép ngang rất phù hợp với ván lát sàn, bậc cầu thang, vách ngăn, tấm ốp tường và ốp trần. Tre ép nghiêng là cách ép các thanh tre áp sát mặt phẳng vào nhau cho một sự đồng đều về màu sắc cao và các đường chỉ song song kết hợp với các mắt tre nhỏ. Tre ép nghiêng có độ cứng tốt, tính ổn định cao và cho một vẻ đẹp độc đáo hiện đại rất phù hợp cho để làm đồ nội thất và trang trí. Cũng có thể kết hợp giữa ép ngang và ép nghiêng để tạo lên những góc nhìn khác nhau và tăng độ vững chắc của sản phẩm.
Với hai màu cơ bản là màu tự nhiên và màu cà phê, ván lát sàn và nội thất tre phù hợp với mọi không gian truyền thống và hiện đại. Không gian tre đem đến cảm giác ấm áp về mùa đông và mát mẻ về mùa hè.
Đạt được các tính năng kỹ thuật tương tự như sàn gỗ tự nhiên nhưng sàn tre lại rất hiệu quả kinh tế do sử dụng nguyên liệu trong nước sẵn có và tạo công ăn việc làm ổn định cho nông dân vùng nguyên liệu. Nội thất tre được thiết kế hiện đại, đa năng, linh hoạt trong lắp ghép và đáp ứng được mọi đối tượng người tiêu dùng trong nước.
No comments:
Post a Comment