Chùa Từ Đàm Huế
LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá khứ cũng như hiện tại, chùa Từ Đàm đã và đang đóng góp sứ mệnh lịch sử của mình cho Đạo pháp và Dân tộc Việt Nam. Đầu thế kỷ 20, qua các Phật sự Xã hội, Văn hoá, Giáo dục, Nghệ thuật và Kiến trúc Phật giáo, chùa này trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng của cả nước, đặc biệt 13 tỉnh miền Trung. Hơn thế nữa, chùa Từ Đàm cũng là nơi in đậm các diễn biến lớn của lịch sử Phật giáo Việt Nam:
- Chấn hưng Phật giáo vào giai đoạn 1930-1945.
- Thống nhất Phật giáo ba miền Trung Nam Bắc năm 1951.
- Chống kỳ thị Phật giáo dưới thời chính quyền Ngô Đình Diệm năm 1963.
- Một trong 3 trung tâm vận động thống nhất Phật giáo năm 1981
Hơn nửa thế kỷ trôi qua, chùa Từ Đàm đã trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử. Vì vậy, năm 2006 chùa đã được trùng tu quy mô hơn, rộng lớn hơn để đáp ứng các nhu cầu Phật sự cho mọi sinh hoạt của chư Tăng Ni tại Thừa Thiên - Huế và Phật tử các giới trên mọi miền đất nước.
Tập sách nhỏ này có thể giới thiệu sơ lược về Lịch sử chùa Từ Đàm, một cái nhìn thoáng qua nhưng biết được toàn cảnh, quả là việc làm không dễ gì đáp ứng đầy đủ được. Thiết nghĩ, đọc sách này cũng là cách gợi mở để quý vị có thể tìm hiểu và khảo cứu xa hơn về ngôi chùa lịch sử này.
VỊ TRÍ
Hiện nay, chùa Từ Đàm tọa lạc trên đồi Hoàng Long gần dốc Nam Giao, mặt quay về hướng Tây Nam, số 01 đường Sư Liễu Quán, phường Trường An, Thành phố Huế. Chùa cách kinh thành Huế về phía Tây Nam khoảng chừng 2 km, liên thông với đường Điện Biên Phủ về phía bên phải và phía bên trái tiếp giáp đường Phan Bội Châu đi về thành phố.
HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Cách đây hơn 300 năm, vào đời chúa Nguyễn Phúc Thái (1683 – 1693), thiền sư Minh Hoằng - Tử Dung người Trung Hoa đã đến đồi Hoàng Long khai sơn chùa và đặt tên: Ấn Tôn tự. Đến đời vua Thiệu Trị (1841) chùa được đổi tên thành Từ Đàm tự, biển hiệu chùa hiện còn tại nhà Thiền chùa Từ Đàm.
Năm 1938, chùa Từ Đàm được chư Sơn môn nhường lại cho An Nam Phật Học Hội và Từ Đàm được trùng tu theo đồ án của Tôn Thất Sa thiết kế. Vào các thập niên 50 cho đến cuối thế kỷ XX, chùa đã được kiến thiết thêm cổng chùa, nhà thiền, tăng xá, nhà khách, nhà bếp; phần khác là “giảng đường” và văn phòng Tỉnh Hội. Đứng ngoài nhìn vào, có lầu chuông và trống hai bên, chính giữa là tiền đường không có cửa. Chỉ trước chánh điện có ba cửa để vào Điện Phật, trên cửa giữa treo tấm biển lớn nền sơn đỏ chữ thếp vàng 承天省會 ‘Thừa Thiên Tỉnh Hội’. Chùa Từ Đàm vẫn được kiến trúc theo truyền thống, nghĩa là nóc chùa vẫn có đắp hai con rồng quay đầu nhìn về Mặt-nã ở giữa đội Pháp luân. Hai mái trên được lợp ngói âm dương. Các góc mái lợp trên và dưới đều có chạm đủ bộ tứ linh long, lân, qui, phụngđược khảm sành sứ rất mỹ thuật. Bên trong chùa lại được kiến trúc theo kiểu chánh điện nối dọc với tiền đường, không có hậu tẩm, không có trụ cột, tạo mặt bằng rộng hơn và đơn giản hơn. Về sau nó trở thành là mô hình của các chùa Hội quán.
CHÙA TỪ ĐÀM HIỆN NAY
Theo tâm nguyện của cố Hòa thượng Thích Thiện Siêu, năm 2006, Hòa thượng Thích Hải Ấn trụ trì chùa Từ Đàm đã đảm nhận việc đại trùng tu chùa Từ Đàm theo quy mô lớn. Ngày 10 tháng 6 năm Bính Tuất (2006) lễ đặt đá trùng tu chùa Từ Đàm được thực hiện. Công việc xây dựng liên tục gần 4 năm, đến năm 2010 hoàn tất và lễ Khánh thành chùa vào ngày 30/3/2010 (nhằm ngày 15 tháng 02 Canh Dần).
Chùa Từ Đàm hiện tại được kiến trúc theo kiểu “Trùng thiềm điệp ốc” như các ngôi Tổ đình xưa. Chùa có một tầng hầm rất rộng dùng để sinh hoạt các lễ hội của chùa. Phía trên tầng hầm; ngoài sân đi vào chánh điện phải bước lên 15 cấp xen giữa một cấp chờ, có lầu chuông và trống hai bên, tiền đường chính giữa tương tự như chùa cũ. Đặc biệt kiến trúc theo kiểu nhà rường: ‘năm gian hai chái’, tiền đường có 5 gian và 5 bộ cửa bàn khoa. Bên trong có 3 dãy kết cấu theo thứ lớp: tiền đường – chánh điện – hậu tẩm, mỗi dãy có nóc mái riêng, được lợp bằng ngói âm dương rất công phu. Trên mỗi nóc của 3 dãy ấy đều có hai con rồng chầu đắp bằng sành sứ. Riêng nóc của tiền đường có đắp hai con rồng hồi, quay đầu nhìn vào Mặt-nã đang đội Pháp luân. Các góc cù giao mái trên có hình con rùa và các góc cù giao mái dưới có hình con phượng chân bước xuống, đầu quay ngược lên, ở giữa mái trên và mái dưới có hình con lân đang chạy. Tất cả đều được đắp nổi, khảm sành sứ rất tinh tế. Dưới mái trước có năm khung chữ nhật bằng đá: khung chính giữa là bức hoành được sao khắc lại theo bức hoành Ấn Tôn Tự ‘印宗寺’ của chùa xưa. (Bức hoành nguyên bản làm vào năm 1703 vẫn còn và đang được treo bên trong chánh điện). Bốn khung còn lại, mỗi bên 2 khung chạm nổi hình ảnh sự tích lịch sử đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
CHUÔNG CHÙA TỪ ĐÀM
1. Chuông chùa đúc vào thời Gia Long, ngày 23 tháng 4 năm Quý Dậu (1813), đề 4 chữ Ấn Tôn Tự Chung, nặng gần 416 cân, khoảng 300kg, hiện nay được bảo lưu tại chùa Từ Đàm. 2. Nhân dịp trùng tu chùa, vào ngày 26 tháng 7 năm Đinh Hợi (2007) chùa Từ Đàm đúc quả chuông khác, đề 4 chữ Từ Đàm Tự Chung, nặng 1500kg, tôn trí ở lầu chuông của chùa và hiện đang sử dụng.
CÁCH THỜ TỰ
Cách thờ Phật ở chùa Từ Đàm cũng rất đặc biệt, gian giữa thờ tôn tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cao khoảng 1m30, hai tay đang quyết ấn Tam muội, ngồi trên toà sen. Tượng Phật và toà sen được đúc bằng đồng, do hai nhà điêu khắc Nguyễn Khoa Toàn và Nguyễn Hữu Tuân thực hiện tại chính điện chùa vào lúc 8 giờ sáng ngày rằm tháng 7 năm Canh Thìn (1940). Tượng Phật này được tạc theo dáng người Việt Nam, phía trên tượng là bảo cái được chạm trổ rất công phu. Hai bên, mỗi bên treo một tràng phan đề danh hiệu bảy đức Phật quá khứ. Gian bên phải tượng Phật là bức phù điêu Bồ tát Phổ Hiền được chạm bằng đá, gian bên trái cũng là bức phù điêu Bồ tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi cũng được chạm bằng đá.
Có 15 bức hoành, 9 bức treo ở trên những bức liên ba (hoa), 6 bức treo ở trên khung của 3 cửa giữa ra vào phía trong và phía ngoài như sau:
- Bắt đầu từ bàn thờ Phật nhìn ra, có ba bức hoành được treo trên liên ba nội: bức giữa đề ‘無上醫王 ’ (Đức Phật là vị vua thuốc tột bậc); bức bên trái đề ‘‘會真如處’’ (Chỗ ngộ chân lý); bức bên phải đề ‘萬德莊嚴’ (Mọi đức hạnh được thành tựu).
- Bắt đầu từ bàn thờ Phật nhìn ra, có ba bức hoành được treo trên liên ba trung: bức giữa đề ‘印宗寺’ (Chùa Ấn Tôn); còn hai bức đề ‘佛光普照’ (Trí tuệ Phật chiếu khắp hữu tình), và ‘行願無盡’ (Hạnh nguyện không cùng tận) được treo hai bên.
- Bắt đầu từ bàn thờ Phật nhìn ra, có ba bức hoành được treo trên liên ba ngoại: bức giữa đề ‘法從斯仰’ (Pháp được quán sát hết lòng); còn hai bức đề ‘知苦断集’ (Biết khổ đế tức trừ tập đế), và ‘修道證滅’ (Tu đạo đế tức chứng diệt đế) được treo hai bên.
- Bắt đầu từ ba cửa giữa nhìn vào, phía trên chính giữa các khung cửa có treo ba bức hoành trên tường: bức chính giữa đề ‘慧日中天’ (Trí tuệ của đức Phật ở trong thế giới); bức bên trái đề ‘慈風普扇’ (Gió từ bi thổi mát khắp nơi), và bức bên phải đề ‘如是莊嚴’ (Trang nghiêm đúng như thật) được treo hai bên.
- Bắt đầu từ ngoài sân nhìn vào ba cửa giữa trước tiền đường có ba bức hoành treo phía trên khung cửa: bức giữa đề ‘承天省會’ (Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên); hai bức hai bên là ‘佛日增輝’ (Mặt trời Phật giáo càng ngày càng sáng), và ‘法輪常轉’ (Bánh xe Pháp luôn luôn chuyển).
Sau chánh điện, hậu tẩm tức nhà Tổ, gian chính giữa: phía ngoài thờ tôn tượng Tổ sư Bồ-đề-đạt-ma, khoảng giữa thờ di ảnh Tổ khai sơn - Minh Hoằng Tử Dung, trên khám ở phía trong thờ long vị Tổ Khai sơn và 4 long vị Thiền sư kế thừa. Gian bên trái thờ chư Tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng quá cố có liên quan với chùa Từ Đàm. Gian bên phải thờ hương linh chư vị hội viên của Hội An Nam Phật học, chư Thánh tử đạo, chư vị Gia trưởng, huynh trưởng, các đoàn sinh quá cố của tổ chức Gia đình Phật tử và hương linh các đạo hữu của chùa. Có bốn bức hoành treo ở trên ở trong nhà Tổ: Từ trong bàn Tổ nhìn ra là bức đề chữ ‘明佛心宗’ (làm sáng tỏ Phật tâm là mục đích) treo trên cửa giữa; ba bức khác là từ ở cửa nhà Tổ nhìn vào, bức ở giữa của các liên ba đề chữ ‘無盡燈’ (Đèn tâm không tắt); bên phía phải là bức ‘正法眼藏’ (Mắt Pháp luôn luôn được truyền thừa), bên trái là bức ‘祖印重光’ (Tâm ấn của Tổ sư đang tỏ rạng càng nhiều).
Về Tổ khai sơn, Ngài người tỉnh Quảng Đông - Trung Quốc, pháp hiệu Minh Hoằng - Tử Dung, đã theo thuyền buôn sang Đàng Trong hoằng hóa vào khoảng năm 1677. Chùa Ấn Tôn được Ngài khai sơn trễ hơn thời gian này. Văn bia Thiền sư Liễu Quán, khai sơn chùa Thiền Tôn còn cho biết thêm, Thiền sư Minh Hoằng Tử Dung là người dạy về yếu chỉ của Thiền tông rất hiệu quả. Chính Thiền sư Liễu Quán đã được Ngài dạy tham công án “萬法歸一一歸何處” (muôn pháp về một, một về chỗ nào) và đã được Ngài truyền tâm ấn chứng để sau này trở thành vị Tổ thứ hai có dòng thiền Tử Dung-Liễu Quán rất long thịnh rực rỡ khắp cõi Nam Hà.
Hiện nay tháp của Tổ sư Minh Hoằng Tử Dung được tôn trí tại vườn chùa Báo Quốc. Tháp Tổ được xây theo hình bát giác, cao 4m10, có tầng. Gần Tháp Tổ là bốn ngôi tháp của bốn vị Thiền sư kế thế, trú trì và trùng hưng Tổ đình Từ Đàm.
CÂU ĐỐI.
Phần nhiều các câu đối treo tại chùa Từ Đàm đều do cố Hoà thượng trú trì - Thích Thiện Siêu biên soạn. Tuy nhiên, vì khuôn khổ bài viết có hạn, chúng tôi chỉ nêu ra đây các câu đối có liên hệ với lịch sử của chùa, cùng thời với An Nam Phật học Hội tức chùa Từ Đàm cũ:
* Hai cột trước chánh điện treo hai câu đối của Thái tử Thiếu bảo, Tôn Thất Hân đề:
楊 瓶 甘 露 一 灑 遍 塵 間 三 千 界 外 普 慈 悲 洗 盡 煩 根 曼 陀 作 雨
- Dương bình cam lộ, nhất sái biến trần gian, tam thiên giới ngoại phổ từ bi, tẩy tận phiền căn mạn đà tác vũ.(Bình cam lồ nhánh dương, một giọt rưới trần gian, từ bi rải khắp cả ba nghìn thế giới, tẩy sạch não phiền, mưa hoa khắp nẽo).
蓮 座 香 花 十 方 依 淨 土 百 八 聲 中 呼 醉 夢 聽 來 說 法 頑 石 點 頭
- Liên tòa hương hoa, thập phương y Tịnh độ, bách bát thanh trung hô túy mộng, thính lai thuyết pháp, ngoan thạch điểm đầu.(Hương hoa trên tòa sen, mười phương nương Tịnh độ, trăm lẽ tám hiệu Phật thức tỉnh người mê; trở về nghe pháp, đá cứng gật đầu).
* Mặt ngoài cùng của tiền đường có khắc sáu câu đối. Hai câu giữa (đối hai chữ Phật học) do Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám đề tặng:
佛 正 遍 知 無 量 壽 無 量 光 無 量 功 德
- Phật chánh biến tri, vô lượng thọ, vô lượng quang, vô lượng công đức(Phật là bậc hiểu biết chân chính, rộng khắp. tuổi thọ vô lượng, trí tuệ vô lượng và công đức vô lượng).
學 真 實 義 如 是 聞 如 是 思 如 是 修 持
- Học chơn thật nghĩa, như thị văn, như thị tư, như thị tu trì. (Học đúng nghĩa chơn thật là nghe đúng, suy nghĩ đúng và thực hành đúng).
* Hai câu kế do cụ Huỳnh Thúc Kháng đề tặng:
隨 塵 逐 影 我 法 橫 生 迷 流 究 竟 妄 成 貪 瞋 癡 慢 有 漏 業
- Tùy trần trục ảnh, ngã pháp hoạnh sinh, mê lưu cứu cánh vọngthành tham sân si mạn hữu lậu nghiệp.(Do theo trần cảnh mà sinh chấp pháp chấp ngã, sự mê mờ đó tạo nên các nghiệp hữu lậu: tham, sân, si, mạn)
絕 相 旋 根 自 他 不 隔 覺 性 本 來 具 足 慈 悲 喜 捨 無 量 心
- Tuyệt tướng toàn căn, tự tha bất cách, giác tánh bổn lai cụ túc từ bi hỷ xả vô lượng tâm.(Dứt hết các tướng phan duyên, các căn tự tại, mình với người không còn ngăn ngại thì tính giác xưa nay vốn đầy đủ tâm vô lượng: từ, bi, hỷ, xả).
* Hai câu ngoài cùng là của cụ Phan Bội Châu đề tặng:
業 緣 萍 合 年 年 白 髮 催 對 面 即 空 寧 把 韶 花 付 流 水
- Nghiệp duyên bình hợp, niên niên bạch phát thôi, đối diện tức không, ninh bả thiều hoa phó lưu thủy.(Thân người như bèo hợp, mỗi năm tóc bạc thêm, trước mặt chỉ là không, sao luống để tuổi xuân theo dòng nước).
世 事 棋 分 處 處 黃 梁 夢 回 頭 是 岸 願 翻 貝 葉 出 優 曇
- Thế sự kỳ phân, xứ xứ hoàng lương mộng, hồi đầu thị ngạn, nguyện phiên bối diệp xuất ưu đàm (Việc đời rối như bàn cờ, nơi nơi đều mộng ảo, quay đầu là bến, nguyện dịch kinh Phật để tỏa ngát hương ưu đàm).
THIỀN ĐƯỜNG
Đối diện với nhà Tổ là nhà thiền, tại đây, ngay cửa giữa phía trong có treo bức hoành đề “Từ Đàm tự”, lạc khoản “Thiệu Trị nguyên niên tam nguyệt”, tức tháng 3 năm 1841. Bên trong xung quanh tường treo các di ảnh chư vị Thiền sư quá khứ của Phật giáo Huế; gian giữa ở trước thờ long vị và sau thờ di ảnh cố Hòa thượng trú trì - Thích Thiện Siêu (1921-2001).
Cố Hòa thượng Thích Thiện Siêu trú trì chùa Từ Đàm (1947-2001), Phó thường trực HĐTSTW kiêm Trưởng Ban Giáo Dục Tăng Ni TW (1981-2001). Hòa thượng đã giảng dạy hơn 50 năm tại các trường Phật học và thuyết Pháp cho các Phật tử trên mọi miền đất nước, nhất là Phật giáo miền Trung. Hòa thượng cũng là một trong chư vị sáng lập viên Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Huế. Đặc biệt Hòa thượng đã để lại nhiều tác phẩm dịch thuật và biên soạn rất có ích cho hậu thế.
TƯỢNG BÁC SĨ TÂM MINH LÊ ĐÌNH THÁM
Từ ngoài đi vào thiền đường, hết tầng cấp ta thấy có tượng bán thân Bác sĩ Lê Đình Thám, pháp danh Tâm Minh. Tượng được tạc bằng cẩm thạch sơn màu xanh ngọc.
Bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám sinh năm 1897 tại huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Lúc nhỏ được phụ thân dạy học chữ Hán. Lớn lên cụ theo học các trường chữ Pháp và trường Quốc Học (Huế), Y khoa Đại học đường (Hà Nội). Cụ đỗ thủ khoa ngành Y sĩ Đông Dương năm 1916, đỗ Bác sĩ Y khoa tại Pháp năm 1930. Sau đó về làm trưởng Viện bào chế & vi trùng học Pasteur tại Huế. Trong thời gian này, Cụ tìm đến học đạo với Thiền sư Giác Tiên – Khai sơn Tổ đình Trúc Lâm và trở thành một cư sĩ uyên thâm Phật học lẫn thế học, có lòng tin Tam Bảo kiên cố và hộ pháp rất đắc lực. Cụ đã dịch bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm, giáo thọ Phật Học Đường Tây Thiên và Kim Sơn - Huế, đã có công trong phong trào chấn hưng Phật giáo tại miền Trung những năm 1930-1945, và là người sáng lập Gia đình Phật tử Việt Nam hiện nay. Cụ từ trần tại Hà Nội lúc 10 giờ ngày 7 tháng 3 năm Kỷ Dậu (23/4/1969).
CÂY BỒĐỀ
Cây Bồ Đề tại chùa Từ Đàm có nguồn gốc từ Ấn Độ, nơi đức Phật thành đạo, được trồng sớm nhất tại Việt Nam. Vào thế kỷ thứ 3 trước Tây Lịch, khi Tam tạng kinh được truyền ra nước ngoài, Tỷ kheo Mahinda, và Tỷ kheo ni Sanghamitta, con trai và con gái vua A Dục đã đem giống cây này sang trồng tại Sri Lanka (Tích Lan). Về sau, Đại đức Narada, người Tích Lan lại lấy giống cây này sang tặng hội Phật học Trung phần và trồng tại đây, nhân dịp Ngài cùng với phái đoàn Phật giáo Cambodia do bà Kapelès làm trưởng phái đoàn sang thăm Thuận Hóa - Huế vào năm 1939.
THÁP ẤN TÔN
Tháp Ấn Tôn được tôn trí bên góc trái cổng Tam Quan của chùa từ ngoài nhìn vào, gần đường Điện Biên Phủ. Tháp được xây dựng theo hình tháp bát giác, đáy tháp rộng 100m2, cao 27.5m, trừ tầng trệt, có 7 tầng cao và càng lên cao càng nhỏ dần, trong 7 tầng ấy thờ 7 vị Phật quá khứ được đúc bằng đồng: Từ trên xuống, tầng 1 - thờ đức Phật Tì Bà Thi; tầng 2 - thờ đức Phật Thi Khí; tầng 3 - thờ đức Phật Tì Xá Phù; tầng 4 - thờ đức Phật Câu Lưu Tôn; tầng 5 - thờ đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni; tầng 6 - thờ đức Phật Ca Diếp; tầng 7 - thờ đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
VĂN PHÒNG TỈNH GIÁO HỘI, GIẢNG ĐƯỜNG VÀ NHÀ TĂNG
Đối diện với tháp Ấn Tôn, bên phải cổng Tam Quan của chùa từ ngoài nhìn vào là Giảng đường và văn phòng Tỉnh Giáo Hội. Toà nhà xây cao 3 tầng. Tầng hầm ở dưới, tầng giữa là Văn phòng tỉnh Giáo Hội Phật Giáo Thừa Thiên Huế. Tầng trên cùng là Giảng đường và để sử dụng cho mọi Phật sự khác như: diễn giảng, hội nghị, tổ chức triển lãm, tu Bát Quan trai…
Một toà nhà khác tiếp giáp với Giảng đường là nhà Tăng, toà nhà này có 2 tầng, mỗi tầng có nhiều phòng nhỏ để ở, dành riêng cho chúng Tăng của bổn tự.
VĂN PHÒNG BAN HƯỚNG DẪN GIA ĐÌNH PHẬT TỬ
Bên góc đường Phan Bội Châu và Sư Liễu Quán có một toà nhà lầu 2 tầng, dùng để làm Văn phòng Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử tỉnh Thừa Thiên Huế, có một thư quán và cũng là nơi sinh hoạt của đoàn sinh Gia Đình Phật Tử Từ Đàm.
TỪ ĐÀM, NGÔI CHÙA LỊCH SỬ
Chùa Từ Đàm có vị trí thuận lợi về địa lý: thuộc vùng núi đồi nhưng lại không xa kinh thành, mặt tiền quay về hướng Đông Nam, hai mặt bên là hai con đường thẳng xuống sông An Cựu và lên đàn Nam Giao. Chùa có lịch sử hơn 300 năm xây dựng và phát triển. Chùa từng là nơi an trú, tu tập và hoằng pháp của nhiều bậc Tôn túc Đại sư, tông môn xương thịnh và đặc biệt là nơi phát xuất, diễn tiến của nhiều sự kiện quan trọng của lịch sử Phật giáo Việt Nam. Chùa cũng là Trung tâm của Phong trào Chấn hưng Phật giáo, đã đóng góp vào sự nghiệp phát triển Phật giáo Việt Nam. Năm 1932, Hội An Nam Phật học được thành lập tại chùa, từ đó, Hội thiết lập Phật học đường và năm 1938, thiết lập Phật học Tùng thư để soạn thảo, in ấn và phổ biến kinh sách, tạp chí.
Để kiện toàn tổ chức, Phong trào Chấn hưng Phật giáo thành lập Tổng hội Phật giáo, đặt trụ sở tại chùa, từ đó lập các Ban Trị sự tại các tỉnh. Năm 1951, một hội nghị rất quan trọng được tổ chức tại chùa, nhằm thống nhất Phật giáo trên toàn quốc, quy tụ các đại biểu của 6 tập đoàn Tăng-già và cư sĩ cả nước: Tăng-già Bắc Việt, Tăng-già Trung Việt, Tăng-già Nam Việt, Hội Việt Nam Phật giáo Bắc Việt, Hội Việt Nam Phật giáo Trung Việt và Hội Việt Nam Phật giáo Nam Việt. Hội nghị quyết nghị thành lập một Tổng hội lấy tên là Hội Phật giáo Việt nam, nhằm thống nhất Phật giáo Việt Nam và gia nhập Phật giáo thế giới.
Chùa còn là nơi xuất phát tinh thần Bất Bạo Động 1963, chống lại chính sách kỳ thị Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm để bảo vệ Đạo pháp từ ngày 8/3/1963 cho đến ngày 1/11/1963. Trong thời gian đó Hòa thượng Thích Tiêu Diêu đã tự thiêu tại sân chùa này, làm ngọn đuốt thắp sáng để Phật giáo Việt nam khỏi bị lu mờ.
Hòa thượng Thích Tiêu Diêu, thế danh là Đoàn Mễ, sanh năm 1892 tại Thừa Thiên – Huế. Hòa thượng là đệ tử của Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Tăng Thống GHPGVNTN, năm 1952 thọ Cụ túc giới, Pháp danh Tâm Nguyện, Pháp hiệu Tiêu Diêu. Hòa thượng đã dự các lớp Phật học tại Tây Thiên, Linh Quang và chuyên nghiên tầm tinh yếu Phật pháp. Ngài tu theo hạnh Đầu đà: ăn ngủ rất ít, nhập thất dài hạn nhiều lần, siêng ở nơi thanh vắng. Nhưng đến khi cuộc tranh đấu chống kỳ thị Phật giáo của chính quyền Ngô đình Diệm phát khởi, thì Hòa thượng xả thất, sau khi lạy Phật, đến ngồi kiết già tại sân chùa Từ Đàm tự thiêu vào ngày 16/8/1963 để cầu nguyện cho Đạo Pháp tồn tại lâu dài. Sau khi hoàn tất sứ mạng, ngài trụ thế 71 tuổi đời, với 32 tuổi đạo, một bậc vì pháp thiêu thân, hiến dâng đời mình cho sự nghiệp chung của Đạo pháp và để lại một chấm son bất diệt trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
CƠ SỞQUAN TRỌNG TRONG SỰNGHIỆP PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO
Truyền thống tu tập, xiển dương Chánh pháp, phát triển tông môn khởi từ Sơ tổ Minh Hoằng và Nhị tổ Liễu Quán luôn được duy trì từ hơn 3 thế kỷ qua. Nói về Tổ sư Liễu Quán (1667-1742), Ngài sinh tại làng Bạc Mã, tỉnh Phú Yên, mồ côi mẹ lúc 6 tuổi. Xuất gia lúc 7 tuổi (1673) với Hòa thượng Tế Viên ở quê nhà. 14 tuổi (1680) Ngài ra Huế học đạo với Tổ Giác Phong ở chùa Bảo Quốc 10 năm. Vì cha đau nặng, Ngài xin thầy cho về nuôi cha 4 năm nhưng rồi cha cũng mất. Sau đó Ngài trở lại Huế (1695) học đạo với Tổ Minh Hoằng - Tử Dung ở chùa Ấn Tôn - Từ Đàm (1702) được đắc pháp tỏ ngộ. Bốn năm sau chứng ngộ (1708) và Tổ Tử Dung ấn chứng, cho Pháp húy Thật Diệu, Pháp hiệu Liễu Quán và dòng thiền này truyền thừa khắp nơi trong và ngoài nước rất hưng thạnh mãi cho tới hôm nay. Như vậy chúng ta có thể nói chùa Từ Đàm do Tổ Minh Hoằng khai sơn đã giữ một vai trò khá quan trọng trong việc phát triển Phật giáo Đàng trong, và đóng góp sứ mệnh lịch sử cho Phật giáo Việt Nam không phải nhỏ.
Sau pháp nạn 1963,chùa Từ Đàm vẫn là một cơ sở lớn cho mọi hoạt động Phật sự của Phật giáo Huế cũng như của Giáo hội PGVN: Tu tập, giảng pháp, hành lễ, hội nghị và nhiều sinh hoạt Phật sự khác với số lượng Tăng Ni, Phật tử tham gia rất đông đảo. Từ Đàm là ngôi chùa khá quan trọng tại Thừa Thiên Huế.
LỜI KẾT
Tóm lại, từ khi Tổ Minh Hoằng - Tử Dung khai sơn chùa Ấn Tôn cho đến nay, sự tồn tại của chùa là vừa tiếp bước đạo mạch chư Tổ, vừa bảo tồn, vừa phát huy Phật giáo xứ Huế, thậm chí cả Phật giáo miền Trung. Tùy cơ duyên khế hợp đối với từng thời đại, chùa Từ Đàm đã vận dụng lời dạy của Phật Tổ: ‘tuỳ duyên bất biến'để truyền bá giáo pháp Phật-đà, làm lợi lạc quần sanh. Bởi vậy, nhìn theo góc độ tùy duyên bất biến ấy, ta thấy vai trò của chùa Từ Đàm thật hệ trọng đối với mạng mạch Phật giáo Thừa Thiên Huế nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung.
Do đó, với chức năng như đã được thể hiện trong lịch sử PGVN từ hậu bán thế kỳ XVII đến nay, chùa Từ Đàm đã nhiều lần được trùng tu, mở rộng nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết về sinh hoạt Phật giáo trong thời đại mới. Ngôi chùa mang vóc dáng mới, đẹp đẽ, khang trang, đồ sộ hơn trước, nhưng vẫn giữ lại những đường nét, những chứng tích, di vật ngày xưa. Linh khí Ấn Tôn – Từ Đàm vẫn còn mãi trong lòng chư Tăng Ni, Phật tử, như làm nơi quy tụ, nương náu, hoài niệm và phát triển tâm linh. Phải chăng trong ý nghĩa này, vang vọng lời ca bất tuyệt “Từ Đàm quê hương tôi”.
- “Quê hương tôi miền Trung, sớm hôm chuông chùa nhẹ rung.
Tiếng muôn đời hồn tổ tiên kiêu hùng.
Ôi uy nghiêm bóng chùa Từ Đàm, nơi yêu thương phát nguồn đạo vàng...”[1].
No comments:
Post a Comment