Tuesday, July 5, 2016

patisserie.jpg (180826 bytes)
ĂN NGỌT VÀ BỆNH TIỂU ĐƯỜNG

Nguyễn Thượng Chánh, DVM


Thèm ngọt là một nhu cầu thiết yếu của cơ thể để củng cố năng lượng.

Carbohydrate hay Glucide là những hợp chất bao gồm đường (sugar), tinh bột (amidon, starch) và chất xơ (fibre). Đa số glucide từ thức ăn bị phân cắt ra thành glucose đề tạo ra năng lượng.

Những chất nầy rất cần thiết cho chúng ta để sống.

Mật ngọt chết ruồi. Lời đường mật làm con tim si dại.

Nhưng hảo ngọt quá đôi khi cũng nguy hiểm lắm đó!

Người bị bệnh tiểu đường có thể dùng đường được không?

Theo l’Association Canadienne du Diabète, thì họ vẫn có thể ăn ngọt được, nhưng phải ăn một cách điều độ chừng mực và vừa phải mà thôi. Cũng có thể thay thế đường bằng cách ăn trái cây, rau cải, hoặc bằng các sản phẩm của sữa.

Trong một ngày, bệnh nhân  không được ăn quá giới hạn tối đa 10% calories từ các thức ăn ngọt. Thí dụ, một người có nhu cầu năng lượng là 2.000 calories/ngày, thì 10% tương đương với 200 calories. 
Biết rằng 1gr đường cho 4 calories...
Một lon coca loại regular có chứa 12 muỗng cà phê đường (48g đường) tương đương với 192 calories!
...“IT HAS BEEN SAID THAT there is approx. 1 teaspoon of sugar per ounce of soda. So a 12 oz. can of Coke contains about 12 teaspoons of sugar. One teaspoon of sugar is about 16 calories. So a can of Coke has about 192 calories. If you drink a six-pac of Coke, you get about 1,152 calories!”
...“Another way is to look at the label, which says that a 12 oz can of Coke has 140 calories. That means that the can has the equivalent of 9 teaspoons or 3 tablespoons of sugar. That's still a lot!”
Trên đây là những chỉ dẫn chung chung mà thôi.
Bệnh trạng mỗi người mỗi khác, nên chỉ có bác sĩ điều trị mới có thẩm quyền quyết định.
Các nhà khoa học Âu Mỹ đều nói rằng, không có mối liên hệ trực tiếp cho thấy đường là nguyên nhân gây ra bệnh diabetes type II... Nhưng về mặt sinh lý học, rất có thể đường gây ra bệnh tiểu đường một cách gián tiếp, chẳng hạn như trong trường hợp chúng ta thường tiêu thụ những thức ăn thức uống có chỉ số đường huyết (glycemic index) cao, khiến tụy tạng phải thường xuyên tiết insulin nên bị mệt mỏi, và trở nên yếu đi. Đây là tình trạng đề kháng insulin (insulin resistance).
Insulin resistance (IR) is the condition in which normal amounts of insulin are inadequate to produce a normal insulin response from fatmuscle and liver cells. Insulin resistance in fat cells reduces the effects of insulin and results in elevatedhydrolysis of stored triglycerides in the absence of measures which either increase insulin sensitivity or which provide additional insulin. Increased mobilization of stored lipids in these cells elevates free fatty acids in the blood plasma. Insulin resistance in muscle cells reduces glucose uptake (and so local storage of glucose as glycogen), whereas insulin resistance in liver cells results in impaired glycogen synthesis and a failure to suppress glucose production. Elevated blood fatty acid levels (associated with insulin resistance and diabetes mellitus Type 2), reduced muscle glucose uptake, and increased liver glucose production all contribute to elevated blood glucose levels. High plasma levels of insulin and glucose due to insulin resistance are believed to be the origin of metabolic syndrome and type 2 diabetes, including its complications.
 

Gs Jim Mann thuộc Đại Học Otago (New Zealand) cũng nhận định rằng, đường gây béo phì và tình trạng nầy sẽ dẫn tới bệnh tiểu đường. Mập bụng (abdominal obesity) là một mối nguy cơ (risk factor) làm xuất hiện bệnh tiểu đường type II.

Trong thực tế, rất khó tách rời ảnh hưởng của đường trong bệnh diabetes. Thêm đường vào thức ăn thức uống chỉ làm tăng calories ăn vào chớ chẳng làm gia tăng giá trị dinh dưỡng của sản phẩm.

Các khảo cứu về bệnh tiểu đường những năm gần đây nghi ngờ các loại nước ngọt có gaz như Coca, Soda, Pepsi, Seven Up, v.v...đã dự phần quan trọng trong sự xuất hiện của bệnh diabetes.

Vậy thì Fructose có tốt hơn không?

Fructose, là đường trích từ trái cây.

Fructose ảnh hưởng ít hơn các loại đường khác trong việc làm gia tăng đường huyết, vì vậy từ trước tới giờ các bệnh nhân diabetes thường được khuyên nên sử dụng đường fructose để tạo vị ngọt, nhưng ngày nay thì fructose mất dần sự sáng chói của nó.

Được biết rằng, ảnh hưởng của fructose không mấy quan trọng trong việc kiểm soát đường huyết, vì nó không kích thích sự tiết insulin, và tai hại hơn nữa là nó làm tăng hàm lượng loại chất béo xấu triglyceride lên.

A sweetener known as high-fructose corn syrup has been widely used in sodas and processed foods since the 1980s, and some researchers have blamed this trend at least in part for the concurrent rise in obesity and diabetes.
Other studies have linked diets heavy in high-fructose corn syrup to elevated risks of high triglycerides (a type of blood fat), fat buildup in the liver, and insulin resistance, note Dr. Gerald Shulman and colleagues at Yale University School of Medicine.
SOURCE: Cell Metabolism, March 4, 2009

Sự gia tăng triglyceride trong máu là một yếu tố làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch. Thí nghiệm trên thú vật cho thấy fructose còn làm tăng sự kháng insulin, đồng thời cũng ảnh hưởng đến hiện tượng dung nạp glucose (impaired glucose tolerance) và hiện tượng cao máu.

Thí nghiệm lâm sàng sơ khởi thực hiện ở người, còn cho biết fructose làm tăng cân do tác dụng xấu trên hàm lượng của hai hormones liên hệ tới sự no (satiety) và sự đói (appetite)...

Đó là hormones leptine và ghréline.
 

Chỉ số đường huyết (Glycemic index, GI) là gì?

GI do Gs David Jenkin, Canada nêu ra đầu tiên vào năm 1981. Ý niệm nầy lần hồi đã thay thế ý niệm đường đơn giản (đường cát) và đường phức tạp (cơm, bánh mì, spaghetti, khoai tây...) đã lỗi thời.

Chỉ số đường huyết là vận tốc chuyển hóa của một chất bột đường (glucidecarbohydrate) ra thành glucose để được hấp thụ vào máu.

Một thức ăn có GI càng cao thì đường huyết càng tăng nhanh.

Các nhà khoa học cho biết sự thặng dư glucose trong máu khiến tụy tạng phải tiết ra thường xuyên insulin và yếu tố insulin like growth factor one IGF-1.
Theo thời gian, tình trạng nầy sẽ đưa đến hiện tượng kháng insulin mà bệnh tiểu đường là hậu quả, và đồng thời cũng có thể có nhiều nguy cơ dẫn đến cancer (vú, ruột già, v.v...).
...“There's good evidence from the studies that have been done that high GI diets are linked to cancer as well. This is because constant spikes in blood glucose that cause the body to release more insulin also increase a related substance called 'insulin like growth factor one' (IGF-1)”.
..."Both these hormones increase cell growth and decrease cell death, and have been shown to increase the risk of developing cancer”.
"Other research shows that a high GI diet tends to reduce 'good' HDL cholesterol levels and raise triglycerides levels; bad news for cardiovascular diseases. And people with low HDL cholesterol and high triglyceride levels are more prone to gall stones. Up until now, people have considered fats and salt, not carbohydrates, to be the major contributor to heart disease”.http://www.sciencealert.com.au/news/20081103-17021-2.html
Vì vậy, các nhà dinh dưỡng khuyên chúng ta nên dùng những thức ăn nào có GI thấp để ngăn ngừa bệnh béo phì,bệnh tim mạch và tiểu đường type II.

Trong thực tế, người ta thường pha trộn lẫn lộn các loại thức ăn có GI khác nhau trong các bữa ăn hằng ngày.

Nhìn chung, các loại đường phức tạp như ngũ cốc, cơm gạo, bánh mì, pasta, spaghetti, và các loại rau cải xanh là những thực phẩm chứa nhiều dưỡng chất và chất xơ.

Đối với những loại carbohydrate nầy, thì đường huyết sẽ tăng chậm hơn là nếu dùng các loại đường đơn giản quá tinh chế như đường cát trắng chẳng hạn.

Tuy vậy, cũng có một vài ngoại lệ, một số chất đường phức tạp như gạo trắng, white bread, bắp, khoai tây lại có GI cao hơn một số đường đơn giản.

GI cũng có thể thay đổi tùy theo nhiều yếu tố khác nhau như:
- kích thước các phân tử tạo nên sản phẩm, chẳng hạn như cereal càng nhuyễn, càng tinh chế thì có GI càng cao;
- cơ cấu sinh hóa (thí dụ gạo Basmati,  gạo Doongara CleverRice chứa nhiều đường amylose nên có GI thấp hơn gạo trắng hạt dài, là thứ gạo chúng ta ăn hằng ngày);
- cách biến chế nấu nướng, như khoai tây nấu chín trong nồi có GI thấp hơn khoai tây đút lò; bột khoai tây (purée, flocon de pomme de terre, potato flake) có GI cao hơn GI khoai tây nguyên củ; carotte tươi có GI thấp hơn GI carotte nấu chín;

Trong lãnh vực thể thao, ý niệm GI rất được các vận động viên quan tâm đến.
Trước hôm ngày tranh tài, nên ăn những loại thực phẩm có GI thấp và GI trung bình, như pasta, spaghetti, chuối, yogurt để dự trữ năng lượng…
Ngày tranh tài, thì dùng những thức ăn dễ tiêu, có GI cao như các thỏi bánh kẹo ngọt có nhiều đường và vitamins.
Ngay sau khi kết thúc cuộc thi đấu, nên ăn những món có GI cao để bù đắp lại nhanh chóng năng lượng tiêu hao.
Đây là một nguyên tắc thường được các người tham dự các cuộc chạy marathon áp dụng.

Chỉ số đường huyết GI của một vài loại thực phẩm

+ Thức ăn chuẩn là Glucose có GI = 100

+ GI thấp: Thức ăn có GI thấp hơn 55
Đậu nành - đậu phọng (15), đậu xanh (30), đậu trắng (38), đậu đỏ (40), sữa (30), yogurt (35), cam (40), táo pomme (39), biscuit khô (55), bột lúa mạch oat (50), bún (35), gạo Basmati có nhiều amylose (50), carotte tươi (35), fructose hay đường trái cây (20), gạo lức - đậu petit pois - khoai lang bánh mì multigrain - pain au son (45), rau cải xanh - tomate - cà tím -ớt xanh - hành tỏi nấm rơm (10), bưởi (22), cam (43), trái poire (36), khoai mỡ (51), xoài (55), trái pêche tươi (28), nước trái pomme (48), nho tươi (43).

+ GI trung bình: Thức ăn có GI trung bình 56 - 69
Cà rem (59), nước cam lon (65), chuối (62), đu đủ (60), pain blé entier - wholemeal bread (69), trái kiwi (58), nho khô (64), đường cát sucrose - saccharose (65), khóm (66).

 + GI cao: Thức ăn có GI cao trên 70
Carotte chín (85), pain blanc (70), cơm trắng gạo hạt dài chứa ít amylose (72), gạo tấm broken rice (86), nếp glutinous rice (98), các loại cereal – cornflakes (80), mật ong (90), Pepsi Coca (70), riz instantané (90), maltose beer (110), khoai tây chiên fries hay khoai đút lò (95), khoai tây nấu chín (70), dưa hấu (72), bí rợ (75), corn chip (72), bánh biscuit khô cracker(78), bánh mì baguette (95).


Cách phòng ngừa tình trạng tiền tiều đường / tiểu đường type II

Trước nhất là phải chuộng một nếp sống lành mạnh.

*-Bỏ thuốc, giảm cân, làm cho ốm bớt nếu trường hợp bệnh nhân đang mập phì sẵn.

*-Hạn chế việc sử dụng dầu mỡ, kiêng cữ đồ ngọt, bớt chất bột đường, tránh thức ăn làm từ bột quá tinh chế (refined).

*-Tránh bớt việc tiêu thụ quá thường xuyên các loại thịt nguội biến chế như thịt bacon, hot dog, lạp xưỡng, saucisse, v.v...
Khoa học cho biết các chất bảo quản được tìm thấy trong thịt nguội như nitrate và nitrite, ngoài nguy cơ gây ra cancer ruột, chúng cũng còn có thể làm tổn hại tụy tạng là bộ phận tiết ra insulin.


*-Nên dùng nhiều trái cây, ngũ cốc, đậu, hạt, rau cải chứa nhiều chất xơ...
*- Ăn chay cho đúng cách cũng có thể giúp hạ đường huyết một phần nào.
*- Không ăn những loại trái cây quá ngọt như chuối quá chín chẳng hạn.

*-Chọn những loại thực phẩm có chỉ số đường huyết GI thấp.

*-Tránh ăn quá nhiều chất bột đường có GI cao trên 72 chẳng hạn như cơm trắng hạt dàicơm tấmxôi nếpkhoai tây đút lòbánh mì baguette...


*Nên bớt ăn cơm thì tốt nhất!!

Thay thế gạo trắng hạt dài bằng những loại gạo có nhiều amylose và GI thấp, như gạo Ấn độ Moolgiri, Basmati, Maharani hoặc gạo Doongara Clever Rice của Úc châu chẳng hạn..

Đã có nhiều khảo cứu cho biết là gạo trắng hạt dài (long grain), loại mà chúng ta thường ăn hằng ngày là một trong nhiều nguyên nhân làm tăng đường huyết rất nhanh...

*-Có thể thay thế cơm bằng bún, miến, đậu xanh, bắp cải, bông cải xanh Broccoli, bông cải trắng cauliflower, rau cải luộc, v.v... là những thức ăn có GI thấp.

*-Phải năng vận động, thường xuyên tập thể dục mỗi ngày ít nhất 30 phút, và tập cho ra mồ hôi mới hiệu quả.

*-Bỏ thuốc lá là một việc cần phải làm.

*-Nói tóm lại, là bạn phải có một nếp sống thật sự lành mạnh vậy!

Kết luận

Cho đến hôm nay thì phíaTây y vẫn khẳng định là bệnh tiểu đường không thể nào trị dứt được. Bệnh chỉ có thể được kiểm soát (control), nghĩa là giữ đường huyết ở một mức có thể chấp nhận được mà thôi.
Mục tiêu của việc trị liệu bệnh tiểu đường là giúp ổn định đường huyết glycemie và ngăn ngừa các biến chứng. Trong tất cả mọi trường hợp, sự theo dõi của bác sĩ điều trị là điều rất cần thiết.
Diabetes has no cure. Diabetes results from changes in the body's ability to absorb glucose (sugar). Once these changes happen, the body never fully regains its ability to process glucose.
However, people with diabetes can improve their glucose absorption through careful monitoring of what they eat and blood glucose levels. Physical activity may also benefit people with diabetes by increasing glucose absorption and reducing their weight and percentage of body fat. People with diabetes can develop a better sense of how food and activity affect them by regularly monitoring their glucose over time. Through these strategies, you can slow the progression of the disease and lower the risk of developing long-term diabetes-related problems. So while diabetes
 cannot be cured, it is a very manageable and livable chronic disease (CDC)

Một chế độ dinh dưỡng quá cao nhiệt năng (higher calorie diet), nói theo kiểu người mình là bơ sữa hơi nhiều, đớp hít hơi kỹ, lối sống quá nhàn rỗi, tà tà, ít chịu vận động (more sedentary lifestyle) sẽ đưa đến tình trạng béo phì (obesity).

Đây là yếu tố nguy cơ (risk factor) dẫn đến bệnh tiểu đường của phần đông người Việt Nam tại hải ngoại.

Hy vọng trong 10 năm nữa khi kỹ thuật trị liệu tiểu đường bằng tế bào gốc (stem cell) được hoàn chỉnh hơn, lúc đó chúng ta mới biết là bệnh tiểu đường có thể trị dứt được hay không!.

Thôi bây giờ bạn cứ quẳng gánh lo đi và vui sống, chớ bận tâm làm chi với bệnh tiểu đường, nhớ kiêng cử trong ăn uống, cũng như đừng quên đo đường huyết mỗi ngày và uống đều đặn thuốc Metformin nhé!



Tham khảo:

    -Bs Nguyễn ý Đức: Bệnh Tiểu Đường; Khoahoc.net      http://www.khoahoc.net/baivo/nguyenyduc/benhtieuduong.htm
    
      -David Mendosa:The Glycemic index list
      
http://www.mendosa.com/gilists.htm

     -Frequently Asqued Questions About PrediabetesAmerican Diabetes Association.
      
http://www.diabetes.org/pre-diabetes/faq.jsp

No comments:

Post a Comment