Lan Acineta
Acineta, viết tắt ACN là một chi nhỏ thuộc các họ Lan (Orchidaceae). Tên gọi này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp akinetos (bất động), do môi dưới (labellum) của hoa cứng.
Những loài phong lan thuộc thực vật biểu sinh này phân bố trong các khu rừng nhiệt đới trên núi từ México cho tới miền tây Nam Mỹ ở độ cao 2000 m. Đôi khi chúng được tìm thấy bám trên các bờ kè dốc (thạch lan hay lithophytic).
Là lớn và quăn, gân lá chạy song song giống chi Peristeria và Lycaste, trong khi cấu trúc của những bông hoa lại tương đồng gần gũi hơn với chi Stanhopea.
Hoa hình chén và thơm, màu vàng nhạt cho tới đỏ nâu.
Một số liên quan như là một trong lộng lẫy nhất tìm kiếm của tất cả các hoa phong lan. Chi Phong lan này được thụ phấn bởi những ong đực thuộc chi Eulaema hoặc Eufriesia.
Tông: Maxillarieae
Tông phụ: Stanhopeinae
Phân bố: Bao gồm khoảng 20 loài ở vùng Châu Mỹ nhiệt đới, từ Mexico tới Peru.
Đây là một giống lan lớn, là loài lan biểu sinh và cũng là loài thạch lan, hiếm khi thấy chúng là loài địa lan. Các giả hành mọc thành từng cụm, hình trứng và có khi là hình trụ, thường thì có các khe rãnh hoặc những nếp nhăn. Mỗi giả hành có 1-4 lá. Lá có cuống lá, có gân và gấp nếp. Vòi hoa thường thì uốn cong và không có phân nhánh, dưới hoa là một lá bắc lớn. Hoa lớn và rực rỡ, bề mặt lá giống sáp, có hương thơm, màu kem, vàng hoặc màu hạt dẻ, điểm thêm các chấm đỏ. Các lá đài hơi cuộn vào trong. Môi có ba thùy, gắn chặt với đế của trụ hoa, đế của môi lõm vào hoặc trở thành cái túi. Những thùy bên hướng lên trên và lớn hơn thùy giữa. Có hai khối phấn.
Trong giống này có nhiều loài nhìn tương tự như nhau, để phân biệt cần nhìn kỹ môi của chúng.
H.nh dưới: Acineta superba
CÁCH TRỒNG
Vì thân của giống này không vươn lên mà là buông thả xuống nên thích hợp nhất là trồng trong giỏ, giống như trồng loài Stanhopea. Môi trường thích hợp đối với chúng là nơi có khí hậu mát mẻ hoặc trung bình, bóng râm nhẹ.
Chất trồng thích hợp là những mảnh vỏ cây trộn lẫn với chất trồng khác. Trong thời gian cây phát triển thì việc tưới nước hay bón phân là không hạn chế. Trong thời kỳ lan nghỉ thì nên đưa chúng ra chỗ có nhiều ánh sáng hơn và phun nước chỉ vừa đủ cho các thân cây lan không bị héo.
Acineta alticola
Giả hành cao 17 cm và to 7 cm. Lá dài tới 58 cm, rộng 10 cm. Vòi hoa buông thõng, lúc ban đầu có thể mọc hướng lên, dài 17-33 cm, mang theo 15 hoa, màu vàng. Các cánh hoa đôi khi có điểm thêm đốm màu nâu. Môi không phân thùy, dày và có các cục chai. Là loài lan biểu sinh, đôi khi ta thấy chúng ở dạng địa lan ở những khu rừng thưa trên độ cao 500-2.500 m, cũng có khi người ta tìm thấy chúng ở độ cao chỉ 100 m. Xuất xứ từ Venezuela.
Loài tương tự: Acineta erythroxantha ở vùng núi Andes của Columbia và Venezuela, hoa có màu vàng và môi có nhiều vết chai sần.
Acineta superba
Giả hành cao 13 cm, to 5,5 cm, hình trứng hoặc hình ê-lip. Lá khá dài, tới 65 cm, rộng 12 cm. Vòi hoa dài 20-70 cm, mang theo 15 hoa, hoa to 8 cm, hình chiếc cốc (ly). Về màu sắc của hoa cũng bất thường, thường thì màu vàng kim hoặc vàng đất với những chấm màu hạt dẻ hoặc màu vàng đồng, với những mảng đậm màu đỏ hoặc nâu. Môi dày và có chai. Môi trường sống là ở những khu rừng quanh năm mây phủ trên độ cao 1.800-1.900 m ở Panama đến Suriname và Ecuador.
No comments:
Post a Comment