Trần Thị Lai Hồng
“Có tìm hiểu dĩ vãng của chính mình thì mới quý nó được, và có quý trọng dĩ vãng thì mới tìm được hướng đi cho tương lai”. Ðó là lời của cố học giả Nguyễn Hiến Lê mà người viết bài này muốn gửi đến các bạn trẻ và những ai quan tâm đến việc bảo vệ kho tàng văn hóa dân tộc.
Khi tìm đọc Văn học sử Việt Nam, chiếc áo dài quả đã ghi lại rất nhiều nét đan thanh không những qua ca dao tục ngữ mà còn qua điêu khắc, hội họa, kịch nghệ, văn chương và âm nhạc. Ngược dòng thời gian tìm về nguồn cội, chiếc áo dài Việt Nam đầu tiên với hai tà áo thướt tha bay lượn đã được tiền nhân ghi khắc trên cổ vật, như trống đồng Ngọc Lũ, Hòa Bình, Hoàng Hạ... từ trên ba ngàn năm trước.
Áo dài Việt Nam quả đã có một quá trình đi sát với lịch sử dân tộc để lắm phen khóc cười theo mệnh nước nổi trôi. Trải qua cả mười thế kỷ bị Trung Hoa đô hộ - một Trung Hoa vĩ đại về mọi phương diện - rồi ngót một thế kỷ dưới ách thống trị của Pháp - quốc gia đứng hàng đầu về thời trang quốc tế - tà áo dài Việt Nam vẫn uyển chuyển tung bay, biểu dương tinh thần bất khuất, đặc tính thích nghi với hoàn cảnh, và khiếu thẩm mỹ của người Việt. Dưới thời kỳ bị Trung Hoa đô hộ, dân ta đã bao phen bị người Tàu ra lệnh đồng hóa: Ðàn ông phải dóc tóc bím đuôi sam, đàn bà phải cắt tóc ngắn và mặc quần thay vì mặc váy, mọi người đều phải để răng trắng không được nhuộm... Nhưng những cổ vật tiền nhân để lại cho thấy người Việt xưa vẫn búi tóc, vẫn mặc áo dài và váy.
Chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng mầu buông thả. Xưa các bà các cô búi tóc trên đỉnh đầu hoặc quấn quanh đầu, đội mũ lông chim dài; về sau bỏ mũ lông chim để đội khăn, vấn khăn, đội nón lá, nón thúng. Cổ nhân xưa đi chân đất, về sau mang guốc gỗ, dép, giày.
Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán, chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành kiểu áo tứ thân với váy xắn quai cồng để tiện việc gồng gánh, nhưng vẫn không làm giảm nét đẹp của người nữ. Vẻ yêu kiều, nét duyên dáng, nết đoan trang của phụ nữ thời áo tứ thân được mô tả rõ rệt qua bài ca dao Mười Thương:
Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thương quai tua dịu dàng
Bẩy thương nết ở đoan trang
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh
Chín thương cô ở một mình
Mười thương con mắt hữu tình với ai?
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thương quai tua dịu dàng
Bẩy thương nết ở đoan trang
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh
Chín thương cô ở một mình
Mười thương con mắt hữu tình với ai?
Ngoài đồng ruộng hay trong những buổi chợ, chiếc áo tứ thân có mầu nâu non, nâu già hoặc đen, mặc với váy vải thô nhuộm bùn, nhưng trong những dịp hội hè đình đám cưới hỏi, áo được may bằng hàng the, nhiễu, thao, lụa, khoác bên ngoài chiếc yếm đỏ thắm hay hồng đào và phủ lên chiếc váy lĩnh hoa chanh hoặc váy sồi có thắt lưng mầu lá mạ hay mầu cánh chả bay lượn trong gió. Các bà các cô vấn tóc trong khăn nhung hoặc vấn trần có một lọn để đuôi gà làm duyên, đội nón thương quai thao, lưng đeo bộ xà tích bằng bạc, tay đeo vòng hay xuyến, cổ đeo chuỗi hạt vàng, chân mang giày dừa, dép cong.
Bộ áo tứ thân đứng vững trên đất nước Việt Nam cả mấy ngàn năm trong khi bộ xiêm y lượt thượt của người nữ Trung Hoa chỉ còn xuất hiện trong cung điện hoặc trong những nhà quyền quý. Ðến thế kỷ thứ ba sau Tây lịch thì đàn bà Trung Hoa bỏ váy để mặc quần, khi chiếc quần xuất hiện dưới thời Gaulois bên Pháp truyền sang Cổ Ba Tư rồi vào đất Tàu. Phụ nữ Trung Hoa lại tiến xa hơn dưới thời vua Võ Vương nhà Thanh năm 1774, mặc kiểu áo xường xám không có... quần! Trong thời gian đó, truyền thống mặc váy vẫn tồn tại ở Việt Nam cho đến thế kỷ mười bảy như đã ghi trong sách Lê Triều Thiên Chính đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665 với sắc lệnh nhắc nhở: ”... áo đàn bà con gái không có thắt lưng, quần không có hai ống từ xưa đến nay đã có tục cũ...” Tuy nhiên, thời trang Việt Nam cũng thay đổi theo thời gian. Phụ nữ tỉnh thành chế biến kiểu áo ngũ thân từ áo tứ thân để có dáng dấp trang trọng hơn.
Bộ áo tứ thân đứng vững trên đất nước Việt Nam cả mấy ngàn năm trong khi bộ xiêm y lượt thượt của người nữ Trung Hoa chỉ còn xuất hiện trong cung điện hoặc trong những nhà quyền quý. Ðến thế kỷ thứ ba sau Tây lịch thì đàn bà Trung Hoa bỏ váy để mặc quần, khi chiếc quần xuất hiện dưới thời Gaulois bên Pháp truyền sang Cổ Ba Tư rồi vào đất Tàu. Phụ nữ Trung Hoa lại tiến xa hơn dưới thời vua Võ Vương nhà Thanh năm 1774, mặc kiểu áo xường xám không có... quần! Trong thời gian đó, truyền thống mặc váy vẫn tồn tại ở Việt Nam cho đến thế kỷ mười bảy như đã ghi trong sách Lê Triều Thiên Chính đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665 với sắc lệnh nhắc nhở: ”... áo đàn bà con gái không có thắt lưng, quần không có hai ống từ xưa đến nay đã có tục cũ...” Tuy nhiên, thời trang Việt Nam cũng thay đổi theo thời gian. Phụ nữ tỉnh thành chế biến kiểu áo ngũ thân từ áo tứ thân để có dáng dấp trang trọng hơn.
Áo ngũ thân cũng cắt may giống như áo tứ thân nhưng vạt trước là một vạt lớn như vạt sau, còn vạt nửa trước bên phải của áo tứ thân nay trở thành vạt con. Áo ngũ thân che kín thân hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng cho đạo làm người theo quan niệm Nho giáo: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Áo ngũ thân không những tôn vinh giá trị cao quý của người nữ trong gia đình cũng như xã hội, mà còn gói ghém nhân sinh quan của dân tộc: Con người nhờ cha sinh mẹ dưỡng, khi thành thân có cha mẹ người bạn đời cùng che chở bao bọc là tứ thân phụ mẫu, luôn tôn trọng đạo làm người và giữ lòng nhân ái, ăn ở có nhân nghĩa trên kính dưới nhường, biết nơi trọng chỗ khinh, biết suy luận tính toán và giữ vững niềm tin nơi người. Áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khăn đội đầu cũng là Quốc phục của phái nam. Các bà các cô dùng mầu sắc óng ả dịu mát trong khi đàn ông con trai chỉ dùng màu đen, trắng, hoặc lam thẫm.
Một kiểu thời trang mới đưa ra bao giờ cũng xuất phát từ thành thị và phải mất cả chục năm - nếu không bị đào thải - mới được phổ biến sâu rộng về thôn quê. Do đó, có thể nói rằng bộ áo ngũ thân xuất hiện vào khoảng đời vua Gia Long (1802-1819) nhà Nguyễn Phúc. Sở dĩ có sự ước đoán này, vì mặc áo dài thì phải mặc quần chớ không thể mặc váy. Và 1763 năm sau khi vua Lê Huyền Tông bắt đàn bà mặc váy, thì vào năm Minh Mạng thứ 9 tức là năm 1828, triều đình Huế ra chiếu chỉ cấm đàn bà mặc váy và bắt phải mặc quần. Hồi ấy dân gian có câu ca dao than vãn:
Chiếu Vua mồng sáu tháng ba
Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng!
Không đi thì chợ không đông
Mà đi thì... lột quần chồng sao đang!
Có quần ra đứng bán hàng
Không quần đứng nấp đầu làng trông quan!
Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng!
Không đi thì chợ không đông
Mà đi thì... lột quần chồng sao đang!
Có quần ra đứng bán hàng
Không quần đứng nấp đầu làng trông quan!
Trước sự than vãn và chống đối của giới nữ, phe đàn ông con trai an ủi vỗ về:
Trúc xinh trúc mọc ngoài sân
Em xinh thì váy hay quần vẫn xinh!
Em xinh thì váy hay quần vẫn xinh!
Từ chiếc áo ngũ thân, vạt con nấp sau vạt trước được cắt ngắn bớt cho gọn, và đó là hình dáng chiếc áo dài Việt Nam, còn giữ lại cho đến bây giờ. Thời đó, các bà các cô giới thượng lưu hoặc nhà giàu, có những cách phô trương áo quần như mặc áo mớ ba mớ bảy tức là nhiều lớp áo mặc chồng lên nhau, nhất là về mùa Ðông. Mùa hè, họ mặc áo the mỏng phủ ngoài áo dài trắng bên trong. Các kiểu trang sức thì đeo chuỗi hạt trai, hạt ngọc, hạt cườm, hoa tai, vòng, xuyến, nhẫn... Tóc vẫn còn để dài. Khi trẻ thì xõa rồi cặp rồi búi sau gáy hoặc vấn khăn nhung, trời lạnh thì trùm khăn nhung khăn nỉ. Từ đôi guốc gỗ thô sơ, các bà các cô có những đôi hài nhung thêu cườm hoặc chỉ ngũ sắc, hoặc những đôi dép da bóng. Tuy nhiên, quá trình chiếc áo dài chưa chịu ngưng ở kiểu áo ngũ thân. Nhật nhật tân, hựu nhật tân, nhất là trang phục.
Sau Ðông phương, áo dài Việt Nam một lần nữa chịu ảnh hưởng Tây phương, bởi thời trang cũng đi liền với lịch sử. Nhưng cũng một lần nữa, tinh thần bất khuất của dân tộc Việt lại được biểu lộ qua chiếc áo dài. Việt Nam thoát ách đô hộ của người Tàu không bao lâu thì lại rơi vào tay người Pháp. Khi văn hóa Lang-sa tràn vào nước ta thì chữ Quốc ngữ thay thế chữ Nôm và Hán, và cách ăn lối ở của ta cũng lần lần thay đổi và cố nhiên áo quần cũng chịu ảnh hưởng. Một nhân vật có tên là Cát Tường -có người cho biết đó là một họa sĩ tên là Nguyễn Cát Tường- tung ra kiểu áo dài mới mệnh danh áo Lemur. Chữ Lemur viết trại theo danh từ Pháp le mur có nghĩa là cái tường viết trại tên họa sĩ Cát Tường.
Áo Lemur ra đời vào năm 1930 lúc nhóm Tự Lực Văn Ðoàn cổ xúy cải cách xã hội, và được cổ động mạnh mẽ trên báo Phong Hóa, gây chấn động tại các đô thị, nhất là tại Hà Nội, nơi từng được mệnh danh là đất ngàn năm văn vật. Áo Lemur cắt may hoàn toàn theo lối Tây phương nối vai ráp tay phồng, cổ bồng, cổ lá sen, cổ nhún tai bèo hoặc táo bạo hơn được khoét rộng để hở cổ. Vạt áo không nối sống nữa vì hàng vải mới sản xuất hoặc nhập cảng từ Pháp có khổ rộng hơn hàng nội hóa thời đó, nhưng vẫn giữ nguyên hai tà dài với gấu áo viền tròn nên tà áo không được mềm mại, được các cô tân thời dùng khăn ”san” bằng ”voan” mỏng quấn lơi quanh cổ để níu kéo nét dịu dàng yểu điệu. Áo mặc với quần dài trắng, chân mang giày cao gót, vai đeo bóp đầm, che dù tránh nắng. Phụ nữ thời đại cải cách này không nhuộm răng đen nữa mà để trắng, tóc vấn trần hoặc búi lỏng, rẽ ngôi lệch. Hồi đó, ngay tại cố đô Huế nơi có triều đình Việt Nam và Tòa Khâm Sứ Pháp, một số các cô tân thời a dua mặc ”mốt” Lemur, và dân Huế có bài vè như sau:
Vè vẻ vè ve
Nghe vè ”mốt” áo
Bận áo lơ-muya
Ði giày cao gót
Xách bóp-tờ-phơi
Che dù cánh dơi
Ði chơi Cụ Ngáo
Ăn cháo không tiền
Cổi liền lơ-muya!
Nghe vè ”mốt” áo
Bận áo lơ-muya
Ði giày cao gót
Xách bóp-tờ-phơi
Che dù cánh dơi
Ði chơi Cụ Ngáo
Ăn cháo không tiền
Cổi liền lơ-muya!
Tại Hà Nội, cây bút châm biếm thời đại Tú Mỡ cũng có bài nhại Mười Thương về áo tân thời như sau:
Một thương tóc lệch đường ngôi
Hai thương quần trắng, áo mùi, khăn ”san”
Ba thương hôm sớm điểm trang
Bốn thương răng mọc hai hàng trắng phau
Năm thương lược Huế cài đầu
Sáu thương ô lụa ngả màu thanh thiên
Bảy thương lắm bạc nhiều tiền
Tám thương động tý ”nữ quyền” giở ra
Chín thương cô vẫn ở nhà
Mười thương... thôi để mình ta thương mình!
Hai thương quần trắng, áo mùi, khăn ”san”
Ba thương hôm sớm điểm trang
Bốn thương răng mọc hai hàng trắng phau
Năm thương lược Huế cài đầu
Sáu thương ô lụa ngả màu thanh thiên
Bảy thương lắm bạc nhiều tiền
Tám thương động tý ”nữ quyền” giở ra
Chín thương cô vẫn ở nhà
Mười thương... thôi để mình ta thương mình!
Tại Sài Gòn vào năm 1934, trong truyện dài bằng thơ Lời Tâm Sự của Thuần Phong đăng trên tạp chí Cùng Bạn, cũng có một bài thơ giễu nhẹ các cô tân thời:
Một yêu mặt trắng má tròn
Hai yêu môi mọng thoa son điểm hồng
Ba yêu mắt sáng mày cong
Bốn yêu mái tóc nực nồng nước hoa
Hai yêu môi mọng thoa son điểm hồng
Ba yêu mắt sáng mày cong
Bốn yêu mái tóc nực nồng nước hoa
Năm yêu mảnh áo ngắn tà
Sáu yêu quần trắng là đà gót sen
Bảy yêu vóc liễu dịu mềm
Tám yêu giọng nói vừa hiền vừa vui
Chín yêu học thức hơn người
Mười yêu, yêu cả đức tài hình dong!
Sáu yêu quần trắng là đà gót sen
Bảy yêu vóc liễu dịu mềm
Tám yêu giọng nói vừa hiền vừa vui
Chín yêu học thức hơn người
Mười yêu, yêu cả đức tài hình dong!
Những hình ảnh lố lăng quá trớn của một số phụ nữ chạy đua theo thời trang và kiểu áo Lemur mới mẻ đã được Vũ Trọng Phụng mô tả tỉ mỉ trong tác phẩm trào lộng thời đại Số Ðỏ. Một số các bà thủ cựu đã không ngần ngại tẩy chay kiểu áo quá tân thời này, thậm chí có bà đã xé toang vạt áo Lemur khi gặp một cô ăn mặc táo bạo trên đường phố Hà Nội.
Bốn năm sau khi áo Lemur xuất hiện và chết yểu, vào năm 1934, họa sĩ Lê Phổ đã cải tiến Lemur, loại bỏ những đường nét Tây phương táo bạo để dung hòa với kiểu áo ngũ thân cũ, không nối vai nối tay, không tay phồng cổ hở mà vẫn cổ kín vạt dài không viền tròn nhưng ôm sát thân người để hai tà áo mềm mại tự do bay lượn. Chiếc áo dài canh tân này được hoan nghênh nhiệt liệt trong Hội Chợ Nữ Công Ðà Nẵng năm 1934 với gian hàng phụ nữ có các bà các cô đứng bán mứt bánh và đồ thêu đan, đoan trang hiền thục dịu dàng với áo mầu quần trắng tóc búi lỏng hoặc vấn trần hay vấn khăn nhung. Tới đây, chiếc áo dài dung hòa được mới với cũ để tôn vinh những nét đẹp của người nữ và tìm được nhân dáng chính xác, để đứng vững từ đó cho đến bây giờ.
Suốt cả ba thập niên sau đó, chiếc áo dài không có nhiều thay đổi lớn ngoại trừ cổ áo khi cao lúc thấp, khi vuông lúc tròn, khi kín lúc hở; chiều dài cũng lên xuống khi mini lúc maxi; gấu áo cũng khi lớn lúc nhỏ; vòng eo có khi rộng lúc thắt chặt. Chiếc quần cũng thay đổi từ kiểu cẳng què qua đáy giữa, lưng từ to bản luồn giải rút đổi sang lưng nhỏ luồn dây thun rồi đổi gài nút, và sau cùng là khóa kéo kiểu Tây phương; trong khi ống quần cũng theo thời khi chân voi lúc ống túm.
Cho đến cuối thập niên 1950, áo dài Việt Nam theo dòng lịch sử thay đổi từ chế độ Quân chủ sang chế độ Cộng Hòa với một nhân vật nữ: Bà Ngô Ðình Nhu nhũ danh Trần Lệ Xuân, phu nhân bào đệ cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm. Ngày 6 tháng 12 năm 1958, trong dịp khai mạc Triển Lãm Nữ Công tại Cô Nhi Viện Nữ Vương Hòa Bình ở Sài Gòn, bà Nhu xuất hiện với kiểu áo dài không cổ tay ngắn mang bao tay trắng, tóc bới cao. Một số các bà các cô trong Hội Phụ Nữ Liên Ðới vội vàng may mặc theo kiểu mới hở cổ: Cổ thuyền, cổ vuông, cổ tròn, cổ trái tim... Nhưng bà Nhu lộng quyền thao túng nền Ðệ Nhất Cộng Hòa và gây bất mãn khắp nơi. Nhiều vụ xuống đường, tuyệt thực, tự thiêu đã xảy ra để bày tỏ chống đối. Chiếc áo dài cũng tham gia cuộc chống đối nhưng thầm lặng hơn, với kiểu áo dài cổ cao tận cằm đối lập kiểu áo không cổ. Sau đó, áo không cổ của bà Nhu cũng theo bà qua Tây nấp trong bóng tối mà mai một.
Ðầu thập niên 1960, nhà may Dung Dakao ở Sài Gòn tung một kiểu mới: Áo dài tay Raglan mặc với quần xéo ống rộng. Kiểu áo cập nhật này giúp xóa bớt những đường nhăn hai bên nách và vai vì được ráp tay xéo vai, nên thân hình người nữ được ôm gọn trong hàng lụa một cách đầy thẩm mỹ. Thuở đó, giới nữ sinh thích mặc ngắn gọn nên có kiểu mini-raglan tay ngắn vạt nhỏ và tà áo chỉ dài tới gối, trong khi các bà thích kiểu maxi-raglan tha thướt nhu mì hơn. Chiếc quần xéo may bằng hàng mềm xếp xéo góc khi cắt, ôm sát hông nhưng hai ống lòa xòa mà mỗi bước đi thấp thoáng thấy mũi giầy ẩn hiện dưới sóng lụa. Nhiều người còn cầu kỳ hơn, may quần xéo bằng hàng mỏng hai lớp trông thật yểu điệu.
Sau đó, một vài nhà may ở Sài Gòn tung kiểu áo ba tà gồm thân sau nguyên một vạt nhưng thân trước chia làm hai như kiểu áo tứ thân xưa, gài nút từ cổ xuống ngực rồi tới bụng thì để thả mặc với quần tây kiểu chân voi để cập nhật với thời trang Âu Mỹ đang có kiểu quần ”bell bottom”.
Cuối thập niên 1960, nhiều bà đưa ra một ”mốt” hay hay là mặc nguyên một bộ áo dài và quần mầu phấn tiên, may bằng tơ lụa nội hóa trông rất dịu dàng khả ái. Một số ca sĩ lên sân khấu lại mặc nguyên bộ mầu sắc đỏ chói hay xanh ngắt viền kim tuyến sặc sỡ. Từ kiểu Raglan có nhiều kiểu biến chế lạ mắt: Thân áo may bằng hàng dày, nhưng phía ngực và tay ráp bằng hàng ren hoặc hàng mỏng; hoặc thân áo khác mầu với hai tay, có khi là hai mầu tương phản như đen trắng, hoặc đậm nhạt, và có khi may bằng hàng rất mỏng nên phải dùng hai hoặc ba lớp, ý hẳn nhắc nhở đến ngày xưa các cụ mặc áo mớ ba mớ bảy để phô trương sự giàu có của mình.
Nữ sinh Việt Nam trước 1975 đến trường đều thường là ”áo trắng học trò”, nhưng thứ hai chào cờ phải mặc đồng phục: Áo trắng nữ sinh Ðồng Khánh Huế, áo lam Hà Nội, áo xanh da trời Trưng Vương, áo hồng Gia Long... những mầu áo thơ mộng đã một thời lên hương qua thơ nhạc.
Một điều ghi nhận là sau khi không còn thể chế quân chủ, kể từ thời Ðệ nhất Cộng hòa (tháng 7-1954), hầu hết các cô dâu đều mặc quốc phục áo dài có khoác ngoài một áo thụng rộng may theo kiểu áo mệnh phụ hoặc áo hoàng hậu, và đội khăn vành xanh hoặc vàng. Ý hẳn đó là ngày nàng trở thành một bậc mệnh phụ và bước lên ngôi hoàng hậu trong cuộc đời của chàng vậy.
Từ cuối thập niên 1960, nhà may Thanh Khánh ở Dakao đưa ra những mẫu hàng thêu hoa lá cành để may áo dài, và tiệm Saigon Souvenirs khu Thương xá Tax Sài Gòn đưa ra những mẫu hàng vừa vẽ vừa thêu trên lụa rất quý phái lịch sự. Ba nhà may nổi tiếng tại Sài Gòn trước 1975 là nhà may Thanh Khánh - nay mở tại Paris, Pháp - nhà may Dung Dakao và nhà may Thiết Lập Pasteur - nay mở tại đường Brookhurst, Garden Grove, California, Hoa Kỳ.
Như trên đã nói, chiếc áo dài Việt Nam có số phận gắn liền với lịch sử dân tộc. Sau biến cố 30 tháng Tư năm 1975, chiếc áo dài cũng theo những bước chân di tản lưu vong ra ngoại quốc, trong khi chính trên quê hương mình có một thời gian đã đẩy lùi chiếc áo dài vào bóng tối hoặc chôn kín trong đáy tủ và chỉ được đưa ra ánh sáng trong dịp cưới hỏi lễ lạc. Trên bước đường lưu vong, bất cứ ở Mỹ, Phi, Âu, hay Á, chiếc áo dài được nâng niu bảo trọng hơn bao giờ. Ở đâu có người Việt là ở đó có áo dài, áo lụa, áo nhung, áo tơ, áo gấm, áo vải, áo thêu, áo vẽ... kể cá áo gấm lam, áo thụng khăn đóng của quý vị tu mi nam tử. Phẩm chất, mầu sắc cũng như những hình tượng trên áo được hòa hợp với trình độ thẩm mỹ khá cao.
Trong số những nhà sáng chế kiểu áo, phải kể đến Thành Lễ Hoàng Ðình Tuyên ở Paris với những kiểu hoàn toàn mới lạ và táo bạo như áo dài hở ngực hở cổ, áo dài không có tay hoặc chỉ có một tay kiểu... độc thủ nữ hiệp, áo dài cũn cỡn ngắn trên đầu gối kiểu... lính thú đời xưa, áo dài năm lớp hàng mầu v.v... Ðặc biệt các kiểu áo dài mới của Thành Lễ đều mặc với quần cùng màu hoặc màu tương phản để tạo sự bắt mắt. Rất may, đa số các kiểu mới này đều còn giữ nguyên hai tà áo bất khuất bay lượn, nét đặc biệt của áo dài Việt Nam.
Hiện nay phong trào áo vẽ và nhuộm mầu đang lấn át những mẫu áo thêu loan phượng giao long, cúc trúc lan mai và cảnh trí thời xưa, đồng thời với sự tái xuất kiểu áo Lemur tay phồng nối vai. Nhiều họa sĩ nổi danh tung ra vô số mẫu vẽ trên lụa: Thành Lễ Hoàng Ðình Tuyên, Thúy Uyển, Nhung ở Paris, Tiểu Linh, Frederic Thọ ở Cali, Anh Ðào, Kim Liệu ở Virginia... Người viết bài này vì yêu áo dài Việt Nam nên cũng mượn mầu sắc ghi lại những hình ảnh quê hương qua hoa lá cành mây nước trăng sao trên lụa, để mong phổ biến những vẻ đẹp của quê hương thể hiện qua tà áo, đóng góp phần nào vào việc gìn vàng giữ ngọc.
Những chiếc áo dài Việt Nam dù với mầu sắc đậm chói hay dịu mát, may bằng hàng vải thô sơ hay tơ gấm lụa là, vạt áo có ngắn cũn hay dài thượt, thân áo có nhỏ hẹp hay rộng rãi, cổ áo có kín cổng cao tường hay hở hang lộ liễu... vẫn là một kết hợp của chân thiện mỹ.
Áo dài Việt Nam không những nói lên nhân sinh quan Việt Nam mà còn gói trọn tinh thần Việt Nam: Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng chỉ tiếp nhận tinh hoa mà gạn lọc cặn bã, tô bồi thêm nét đẹp mà vẫn giữ cá tính độc lập.
Áo dài Việt Nam là niềm kiêu hãnh của người Việt Nam. Chính vì vậy mà người Việt vẫn yêu quý tà áo Việt, nhất là thế hệ trẻ lưu vong trong sứ mạng gìn vàng giữ ngọc.
TRẦN THỊ LAI HỒNG
No comments:
Post a Comment