Friday, March 31, 2017

CHÙA THIÊN MỤ



Chùa Thiên Mụ là một danh lam thắng cảnh vào bậc nhất của cố đô Huế. Chùa được xây trên đỉnh một ngọn đồi cao ngay bên bờ sông Hương đối diện vùng đất Long Thọ.
Trước cửa chùa có tháp kiến trúc theo hình bát giác, một kiểu bố cục theo hình bát quái. Tháp nầy gồm có 6 tầng đều nhau nhưng càng lên cao thì diện tích lại được thu nhỏ lại. Mỗi tầng có một mái nhỏ chìa ra với những đường nét trang trí khá tinh vi, đều đặn và sinh động lạ thường. Mỗi mặt có một cửa cuốn khá lớn hình chữ nhật nhưng chung quanh có nhiều mô hình long nguyệt. Trên cùng là một mái nhỏ 8 cạnh. Chính giữa có trang trí một hình nậm rượu có mũi nhọn. Chung quanh có những mô hình vân vũ.
Nhiều vị cao tăng từng được mời về làm trụ trì từ trước đến nay cho nên chùa trở thành nơi quần tụ nhiều thiện nam tín nữ đến nghe thuyết pháp. Có nhiều huyền thoại chung quanh lai lịch của chùa Thiên Mụ được nhiều sách báo xưa nay đề cập đến.
Một trong những mẫu chuyện đó đã kể lại như sau: Từ những năm tháng trước đó, dân chúng trong vùng nầy đêm đêm thường thấy một bà già mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên một ngọn đồi mà chùa toạ lạc hiện nay. Bà cho biết như sau: Sau nầy sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa trong vùng nầy để tụ long khí để cho long mạch được bền vững. Sau khi nói xong thì bà ta biến mất.
Từ đó ngọn đồi nầy được gọi là Thiên Mụ Sơn (tức là ngọn núi của bà Trời). Sau khi vào trấn thủ đất Thuận Hoá, chúa Nguyễn Hoàng (1558-1613) thường đi tìm những vùng địa thế đặc biệt có đến vùng nầy và được dân chúng kể lại như thế. Chúa Nguyễn tự nghĩ chân chúa đó chính là mình, chonên đã khuyên dân nên xây chùa tại đây và đặt tên là Thiên Mụ Tự.
Nhưng nhiều giả thuyết đã không xác định như thời điểm đó. Theo các giả thuyết nầy thì nhiều chứng tích cho rằng chùa đã được xây lên vào năm 1555, tức là khi chúa Nguyễn chưa ra đời.
Trong sách Ô Châu Cận Lục của Dương văn An viết trong thời điểm đó cũng định cả đến tên của ngôi chùa này rồi. Cũng có thể thời đó ngôi chùa tuy được dựng lên, nhưng chỉ là một thảo am nhỏ, kiến trúc chưa có gì là quy mô, rộng lớn như sau nầy. Thời điểm chúa Nguyễn cho dựng lại chùa vào năm 1601 và quy mô rộng lớn khang trang hơn trước.
Những triều Nguyễn đã cho xây dựng liên tiếp những phần còn lại trong quần thể chùa nầy. Năm 1665, ngôi chùa nầy cũng đã được chúa Nguyễn Phúc Tần cho trùng tu với những kiến tạo quy mô hơn. Cuối năm 1695, Hoà thượng Thạch Liêm (Thích Đại Sán) ở Quảng Đông được chúa Nguyễn Phúc Chu mời qua hoằng dương Phật Pháp tại ngôi chùa nầy. Tín đồ đến tham dự ngày càng đông đúc và chùa được nổi tiếng vang khắp nơi từ đó.
Năm 1710, chúa Nguyễn cũng cho đúc một đại hồng chung và cũng đã viết một bài Ký để khắc trên chuông nầy. Năm 1714, Chúa sai Chưởng Cơ Tống Đức Đại đứng ra trông coi việc trùng tu và cũng đã mở rộng thêm ngôi chùa nầy. Trong dịp nầy, một chương trình trùng tu khá quy mô: chùa được xây thêm điện đài, nhiều đình viện chung quanh, nhà Tăng, nhà Tổ, vọng chuông.
Theo những tài liệu ghi chép lại đã có 22 công trình xây dựng trong dịp nầy. Công tác chỉnh trang nầy kéo dài trên một năm trời vàcó đến 1012 người thợ và dân phu tham gia trong cuộc xây dựng lần nầy. Tất cả được mô tả là công trình khá hoành tráng. Sau khi sửa chữa xong, một lễ kỳ an kéo dài đến 3 ngày và chúa Nguyễn cũng cho khắc một bài Ký do chính mình soạn thảo để làm kỷ niệm.
Nhà vua cũng nhờ 3 vị thiền sư Việt Nam sang Trung Hoa thỉnh hơn 1000 bộ kinh Phật Giáo nổi tiếng về tàng trữ tại ngôi chùa nầy để phát triển thêm tư tưởng Phật Giáo. Cho đến đời Tây Sơn nắm quyền hành (1786-1801) thì chùa Thiên Mụ đã bị nạn binh đao tàn phá rất nặng nề. Có đến 3/4 công trình đã bị hủy hoại.
Theo tài liệu của Phan huy Ich, đã có thời kỳ triều đình Tây Sơn đã dùng ngôi chùa nầy làm đàn Xã Tắc để cúng tế cầu đảo hằng năm. Đời nhà Nguyễn, vào những năm 1815 và 1831, vua Gia Long và vua Minh Mạng đã sai quan Lễ Bộ Tham Tri đứng ra điều khiển việc tu sửa lại ngôi chùa danh tiếng nầy.
Năm 1844, để kỷ niệm bà Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu (vợ của vua Gia Long) thọ 80 tuổi (Bát tuần Thánh Thọ), vua Thiệu Trị đã cử Thống Chế Hoàng Văn Hậu đứng ra điều khiển việc kiến trúc lại ngôi chùa nầy trên một quy mô rộng lớn: xây thêm tháp Phước Duyên, đình Hương Nguyện, dựng lại hai tấm bia ghi lại thơ văn nhà vua.
Chùa Thiên Mụ cũng được chọn làm một trong 20 thắng cảnh nổi tiếng của đất Thần Kinh, qua bài Thiên Mụ Chung Thanh:
Cao cương cổ sát trấn tiền xuyên, Nguyệt tướng thường viên tự tại nhiên. Bách bát hồng thanh tiêu bách kết, Tam thiên thế giới tỉnh tam duyên. Tăng hoằng ngọ nhật u minh cảm, Liêu lượng dẫn tiêu đạo vị huyền. Phân tích Thánh công thùy hải vũ, Thiện nhân tăng quả phổ cai diên.
Nghĩa là:
Gò cao chùa cổ bên sông, An nhiên nguyệt tướng, mặt vòng tròn gương. Niệm tan phiền no sầu thương, Ba ngàn thế giới, tỉnh đường ba sinh. Chuông rền cảm giới u minh, Ban mai tiếng tụng, hiển linh đạo huyền. Thánh công Phật Tích lưu truyền Nhân lành, quả tốt, khắp miền nước non. (Bản dịch của Nguyễn Quảng Tuân)
Năm 1899, để đóng góp công đức cho chùa nhân dịp lễ Cửu Tuần Đại Tiết của bà Từ Dũ (vợ của vua Thiệu Trị), vua Thành Thái đã ra lệnh cho bộ Công tu bổ lại tháp Phước Duyên và dựng bia để kỷ niệm. Năm năm sau đó (1904) một trận bão dữ dội đã gây cho ngôi chùa nầy nhiều thiệt hại nặng nề, mà trong đó, đình Hương Nguyện đã bị sụp đổ. Mùa thu năm 1907 thì chùa được trùng tu lại.
Tháng ba năm 1920, vua Khải Định lại cho dựng bia đá gần tháp Phước Duyên, để khắc một bài thơ ngự chế nội dung ca ngợi cảnh chùa. Đợt sau cùng, chùa Thiên Mụ đã được đại tu bổ vào cuối năm 1957. Trong đợt nầy, phần lớn những bộ phận kiến trúc trong điện Đại Hùng đều được thay thế bằng bê tông cốt sắt. Thiên Mụ trở thành một trong những danh lam nổi tiếng nhất của đất Thần Kinh.
Thiên Mụ được nhắc nhở nhiều trong thi ca âm nhạc, hội họa nhiếp ảnh, để lôi cuốn du khách bốn phương cảngười nước ngoài.
Không một tập Kỷ Yếu nào viết về Huế mà không có hình tháp của Thiên Mụ. Cơ quan UNESCO trong chương trình trùng tu Huế đã đưa Thiên Mụ lên hàng cao. Đại hồng chung Thiên Mụ là được liệt vào một trong những công trình kiến trúc và điêu khắc nổi tiếng của vùng đất Thần Kinh. Căn cứ theo những tài liệu lịch sử và kiến trúc đất Thần kinh thì công trình đúc chuông nầy là do chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1727) đề xướng.
Năm 1710 việc đúc đại hồng chung nầy hoàn tất. Một đại trai đàn được tổ chức vô cùng trọng thể sau khi chùa xây xong. Tính rathì chuông nặng trên 2000kg và chiều cao đến 2,5 mét đường kính của chuông là 1,4 mét. Trên mặt của chuông có khắc 8 chữ Thọ theo lối chữ triện; ở giữa thân chuông chia làm 4 khoảng, có khắc bài Minh của chúa Nguyễn Phúc Chu.
Những hình long,vân, nhật, tinh được chạm nổi; phía dưới khắc hình bát quái và sóng nước. Chuông có chiếc quai rất lớn đúc bằng đồng, hình sóng nước. Thân chuông được phân chia ra nhiều phần trang trí khác nhau.
Nhiều vòng song song được bố trí đều từ quai đến đáy chuông. Vòng thứ 1: Vòng trang trí hoa dây. Vòng thứ 2: Bốn đôi rồng chầu mặt nguyệt. Vòng thứ 3: Tám chữ Phúc. Vòng thứ 4- Vòng trang trí kỹ hà. Vòng thứ 5- Bài thơ của chúa Nguyễn. Vòng thứ 6 – Những đường song song trên có 4 vòng cao. Vòng thứ 7 – Hình hậu thiên bát quái. Vòng thứ 8 – Hình bát bửu. Vòng thứ 9- Hình sóng nước.

No comments:

Post a Comment