Sunday, December 18, 2016

Sân Trường Cũ



Tùy Bút của Thái Thụy Vy 
Ngày nay, tuổi trẻ Việt Nam lớn lên được”sút chuồng” lúc vào nội trú bậc đại học. Ngày xưa, lũ chúng tôi được “sổ lồng” ngay khi còn chưa đủ lông đủ cánh lúc vào nội trú bậc trung học.
Chúng tôi rời tổ ấm hơi sớm, nhưng cha mẹ không cảm thấy trống rỗng vì “empty nest”, vì chim con vẫn tiếp tục ra lò đều đều.
Những năm nội trú, nhất là những năm nội trú Mossard, cuộc đời học sinh chúng tôi lúc nào cũng được đậm màu bằng những kỷ niệm ngây thơ, vui buồn, luôn luôn gắn liền với tình bằng hữu và những mộng mơ đầu đời của một thời đang nhổ giò.
Trước khi vào Mossard, tôi thường nghe chú tôi bảo ba tôi “Tống nó vô cho Thầy Dòng trị nó”. Chắc các bạn đã đoán ra rằng là tôi không mấy được welcome vì tánh tình hay chọc phá và hay đánh lộn đánh lạo luôn.
Thật tình thì tôi không bị Thầy Dòng trị bao giờ mà còn được thầy thương và bạn …ghét. Đứa bé bất trị ngày nào có vẻ “chịu phép thánh”. Kết quả là ba tôi tống luôn sáu tên bất trị nữa vào Mossard, cộng thêm người chú thứ 13 chỉ lớn hơn tôi có một tuổi. Danh tiếng của Thầy Dòng càng lên thì số con nhà giàu ở tỉnh tôi càng gửi con vô Mossard mỗi năm nhiều thêm, nhờ thế mà chúng tôi có thêm bạn để… đánh lộn.
Nhứt quỷ, nhì ma, thứ ba học trò! Không làm quỷ (hay làm bụt) ở nhà thì làm yêu, làm tinh trong trường. Đó là một nhân đức, một thực thể và một thực chất không bao giờ suy suyển, và chuyện học trò thì dài dài, kể hoài không hết, như chuyện “con ma vú dài khám Chí Hoà”.
Thôi, còn đâu những ngày rong chơi, bắt dế, đá cá lia thia; đâu những ngày thả câu cắm mùa nước nhảy; đâu những ngày leo tót lên cây vú sữa vừa nặn vừa nút loài trái cây mang cái tên dịu dàng, hấp dẫn và đã khát (sữa rừng thay sữa mẹ !). Còn đâu những ngày chấm mủ mù u bắt ve sầu, hái trâm tim tím và hái đọt vừng nõn nà như tà áo lụa…
Tôi giã từ bao nhiêu sinh thú đó để bước vào ngưỡng cửa của kỷ luật ngăn nắp; của giờ giấc được điều khiển bằng chuông điện và tu huýt; khoác lên bộ đồng phục đọc kinh sáng trưa chiều tối Anh Pháp Việt, giờ học giờ chơi giờ ăn ngủ.
Tôi còn quá nhỏ để hiểu tại sao tiền vận đời mình phải bị khép vào cuộc đời “khổ tu” quá sớm như vậy, đi đứng đều có gát-dan (guardian), các thiên thần áo đen này, tay cầm thước bảng gõ nhịp, nhứt cử nhứt động đều bị theo dõi, lỡ dại xé rào là nát đít.
Nhớ lại đêm đầu tiên, Thành, thằng bạn đồng hương xứ Bưởi, nhớ “bưởi” nhà nằm khóc thút thít. Tôi “gan lì” và “dạn dày” hơn nên lên mặt đàn anh dỗ dành, an ủi Thành, mặc dầu, trong thâm tâm mình đang lung lay vì một sự nuối tiếc, mất mát, nhớ nhung đâu đâu, lúc đó chợt biết “no place like home” thì đã quá muộn.
Những ngày tháng đầu ở “quân trường” Mossard là một thử thách như “đoạn đường chiến binh” cho lũ chúng tôi. Mới có vài tuần đã có vài tên “lính sữa” đào ngũ về mớm vú mẹ. Tụi nhỏ nhõng nhẽo, than van đồ ăn nhà bàn nuốt không vô, đòi toàn deli và homemade. Các bậc phụ huynh của đám lính cậu, tiểu thơ thì méo mặt vì trả tiền ăn ở nội trú đắt đỏ, còn phải hàng tuần sai tài xế tiếp tế cao lương, mỹ phẩm cho các cậu ấm, nhờ thế mà đám chôm chỉa cũng thơm lây. Riêng Frère Économe “tổng khậu” Albert thì lúc nào cũng nở nụ cười trên môi và lẩm nhẩm :”Comme il faut, comme il faut…”. Lũ lục lăng chúng tôi, sau thời gian “cá vượt vũ môn”, vào nhà bàn là dành ăn như lính.
Cuộc đời cứ như vậy, như vậy mà trôi khi bình lặng, khi sóng gió.
Cơn bão cultural shock đầu mùa vừa lắng dịu thì có sự xuất hiện của các cao thủ võ lâm quần hùng, quái nhân, chân sư và superman.
Số là trước Hiệp định Genève 54, đa số con lai Pháp mồ côi được thừa nhận hay vô thừa nhận được chính phủ Pháp gửi vô Mossard làm con nuôi Thầy Dòng. Chúng tôi “hiệp chủng” với cái bang toàn phái tả-pín-lù này một cách khá dễ dàng vì tụi này trông hung tợn nhưng háo ăn, nhét một cái bánh biscuit “sơn đá” (loại dày trong ration lính Pháp) là thành bồ ngay.
Vào giờ chơi, sân trường là chốn hành hiệp, kiếm khách giang hồ đủ ca-líp dọc ngang nghênh ngang oai trấn. Tôi nhỏ con lại lí lắc hay chạy loanh quanh, lòn trôn anh chàng hung thần “Aladin” Dulac. Anh Tây đen này có cặp giò lêu khêu flamingo và có nụ cười trắng nhởn. Tôi ngước lên nhìn anh ta hỏi :” Ở trên đó có dễ thở không?”. Thế là anh ta đang hiền khô bỗng đổ quạu, không lần nào tôi chạy thoát, bị véo tai đau điếng, tánh nào tật nấy, trời gầm cũng không bỏ.
Bốn mươi năm qua mau, những cái tên Bernard, Auguste, Rémanjon, Benoit, Kosna mặt rỗ “mille trous”, là những cái tên vẫn còn âm vang của tiếng dội từ tiềm thức, trong ký ức của thằng tôi giờ này sang ra đa sầu, đa cảm và …dadaisme.
Nhưng có một cái tên tôi khó quên. Henri Taborski.
Đa số Tây lai đều du côn và hoang đàng, riêng Taborski đẹp trai, nhu mì, lúc nào cặp mắt cũng phản ảnh một niềm cô đơn khó hiểu, nghe nói cha anh là lính Légionaire, đã tử trận tại Algérie. Trong một thời gian ngắn, chúng tôi thành bạn chí thân vì cùng lớp, cùng bàn, nhưng cuộc đời ít khi chìu lòng người, tôi tưởng tình bạn êm đềm cho đến khi tiếp tục lớp trên ở Taberd Sàigòn. Hiệp định 54 ký kết, cùng với quân đội Pháp, trẻ lai được đưa về Arsenal để về mẫu quốc. Lần thứ nhất trong đời tôi hiểu thế nào là chia tay. Tôi rủ Taborski ra chợ Thủ Đức ăn bún nem. Tôi chan nước mắm ớt thật nhiều vô tô bạn nói:”Để không bao giờ mầy quên nước Việt Nam và tao”. Ngày Henri lên đường, chúng tôi siết tay thật chặt, tôi không khóc mà cũng không nói ra lời nào. Henri nhìn tôi và cúi mặt quay đi. Vẫn đôi mắt côi cút cô đơn ấy, tôi hiểu bạn muốn nói với tôi thật nhiều, nhiều lắm. Sau vài lá thư qua lại, có đoạn Taborski bảo:”Nếu mày viết cho tao, nhớ thấm một chút nước mắm ở góc lá thư cho tao đỡ nhớ Việt Nam và mày”. Chúng tôi mất liên lạc hẳn từ đó, không phải vì tôi chóng quên, nhưng lúc đó tôi đang bắt đầu tập tễnh viết thơ …mèo bằng tiếng Việt.
Biến cố 1954 lại đánh dấu thêm một lần “hội nhập” mới nữa. Một số đệ tử chủng  sinh từ Bắc vào “định cư” trên dãy dortoir xóm Cây Dầu. Các anh tu sĩ má hồng phúng phính, tóc để mèche nhọn che cả mặt, nắng chang chang vẫn mặc áo lá len xanh đỏ, có cậu còn choàng cả foulard nữa. Lớp tôi e dè welcome hai đấng Tẫm và Liên. Tẫm lớn tuổi, đứng đắn, trầm lặng, ít nói. Liên đẹp trai ra vẻ con trai Hà Nội 36 phố phường. Cái anh này ăn nói khéo nên gây cảm tình với đám Nam Kỳ rất mau. Sau nầy gặp lại Liên ở trường Luật, mỗi lần cặp với một cô Bắc Kỳ nho nhỏ xinh xinh, cô nào cũng nhuyễn như tơ tằm. Không biết Liên đã nhảy rào từ hồi nào.
Tuổi trẻ Mossard còn sống động qua hình ảnh các nhân vật trong các tạp chí hoạt họa Coeurs Vaillants. Sân trường là nơi chúng tôi vui cười thỏa thích, cười hả hê hay cười vu vơ với những đấng “quái thai của thời đại”, tuy nhiên Mossard tuyệt nhiên vắng bóng bọn “bầy thú trước bảng đen”. Có anh chàng Phú điên, biệt danh “Fou Harley”, lúc nào cũng chạy mô tô tưởng tượng, chạy thắng, thắng chạy, không khi nào đi đứng đàng hoàng. Lại có anh chàng Thiện tự coi mình là hỏa tiễn, rồi đến chàng Thiệt, chuyên viên chế toa thuốc…trung tiện, tới gần ai, đứng rặn là người đó tránh xa. Bọn samurai giang hồ thì phải né ba anh chàng Ngự Lâm Pháo Thủ, đi đâu cũng đi cặp ba và vác kiếm…gỗ. Lại còn anh chàng kiếm sĩ “Độc cô cầu bại” Scaramouche lúc nào cũng mang mặt nạ. Rồi anh chàng Ó biển Surcouf, thích vẽ đầu lâu trên ngực, trên cờ đen…
Anh nào ốm nhom thì bị gán nickname Lucky Luke, phì lũ như anh chàng Nguyễn Trương thì bị gọi là Patapouf, Thanh électrique là biệt hiệu của Tám Nheo, vì anh ta vừa nói cà lăm vừa nheo mắt lia lịa; mập mà khật khờ thì bị gọi là Tài Lù, thiếu thước tấc thì đặt tên là Tintin, ghét thì gọi là Milou. Còn có bốn anh em nhà Dalton bất hủ, con chủ xe đò Thuận Thành, giàu nứt đổ vách mà keo kiệt, địch thủ của anh Châu “Ba Kẹ”, lúc nào cũng gậm móng tay hôi rình lại thích bẹo má các bà đầm.
Không ai khỏi bị đặt tên trừ các trự mười hai con giáp chẳng giống con nào; riêng tôi lúc đó mặt mày không mấy dễ ưa nên bị “Ông từ” Nguyễn Văn Hậu, tuy không có đạo mà lúc nào cũng lần chuổi lâm râm, kể cả giờ chơi. Không biết tôi làm mích lòng anh hồi nào mà anh gán cho tôi cái biệt danh “Cinq cent dollars” để ám chỉ chân dung các đấng “outlaws” được shériff “wanted” dán trên cửa các Saloon.
Trên tất cả cái đám nhân loại phàm phu tục tử là các tiểu thơ đài các “đẹp gái” được phong cho cái tên mỹ miều là các “Bà Đầm”, Bà Đầm Quan, Bà Đầm Bửu, Bà Đầm Thành, Bà Đầm Thuận Gàbi… Họ là giai cấp “chouchou” của các thày. Môn phái này được ưu đãi, lúc nào túi cũng rủng rỉnh, cành cạch quà cáp.
Lũ chúng tôi lớn lên với những cái nhiêu khê, nửa thăng bằng nửa mất thăng bằng vì thiếu chất hồng. Ngày vui nhất phải là ngày chúa nhật. Sáng sớm đã thấy các con chiên lành dậy sớm đánh giày bóng lộn, trét brillantine ba số “5” ruồi đi trơn trợt phải chống gậy, xức dầu thơm Coty sực nức, nhất là các đấng tây lai. Họ hăm hở đi rước lễ vì họ biết có close encounter với các con nuôi bà sơ, hiền như Ma soeur, lai có,Việt có, cũng vừa vặn đến tuổi làm duyên, làm dáng. Không biết sau này có cô cậu nào nên đôi lứa không, chứ các Frère và các Soeur hội nhập, thành tựu đến mấy cặp, song ca Karaoke bài “Vì tôi là linh mục” và “Em hiền như Ma soeur”.
Sóng gió để lại trái tim bọn mới lớn biết bao vết thương thời thượng, lâu lâu Thiếu Lâm Tự nổi ba đào vì có sự xâm nhập của người phái Nga Mi, Không Động. Cuối tuần nếu bị lỗi cấm túc không được sortie, thú vui lẩm cẩm là chơi thể thao để tiêu bớt energy hay ngồi ngắm các tà áo dài từ Saìgòn vào thăm nuôi em út để bắt đầu làm thơ… con cóc.
Một hôm, tin tức khí tượng cho tàu chạy ven biển không báo động mà bão cấp sáu đã làm Thiếu Lâm Tự tan tác. Không hiểu vì lý do gì, Frère Adolphe (préfet) phá lệ dẫn người đẹp Á hậu Hương Cảng vào tận sân trong kiếm thăm thằng em Ba Tàu đầu gà đít vịt. Mọi sinh hoạt đang sinh động bỗng trở thành slow motion. Mấy tên phạm pháp đang piqué cũng được tha khỏi phạm trường. Thời gian như đứng lại, giang hồ tứ chiến đều nín thở. Hoa lạc giữa rừng gươm !!! Người đẹp Hướng Cỏn với chiếc áo xường xám bó sát thân thể trời cho (tôi không nghĩ là cái sườn của ông Adong) bước đi uyển chuyển như xà tướng. Chú tiểu bấy lâu nay chỉ biết kinh kệ, bỗng như được soi sáng, được điểm huệ nhãn, chỉ mong mau mau đạt thành chánh quả, mau mau xuống núi để đi hành đạo..
Sao em bước nhỏ ngập ngừng
Bên cầu sương rụng mấy tầng mai mơ
Đêm về thắp nến làm thơ
Tiếng chân còn vọng nửa tờ thư tôi
(P.T.T)

Những năm tháng Mossard! Ôi những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời. Mỗi cái tên Nguơn, Tường, Đại, Quan, Cảnh, Các , Hậu, Hiệp, Long, Toàn, Hoàng Cầu, Thanh, Hoàng Anh, Liên, Tẩm, Bửu, Thọ, Trương… đều mang một ý nghĩa gắn bó với một khung trời kỷ niệm của tuổi thơ mà chắc chắn chúng ta không bao giờ tìm lại được.
Dẫu vui dẫu buồn, kỷ niệm hãy là kỷ niệm; hãy là những giới mốc của thời gian đánh dấu một thời sinh ra, một thời để lớn, một thời để yêu, một thời để quên, một thời để nhớ và một thời đi về với hồn thiên cổ.
Vanitas vanitatum. Phù du, phù du, tất cả là phù du. May mắn thay, Thượng Đế còn cho ta kỷ niệm, sống bằng kỷ niệm, sống cho kỷ niệm với đầy đủ màu sắc, âm thanh, với những đổ vỡ, ngổn ngang, với những suy tư, với những nuối tiếc.
Bài thơ tôi viết tặng các bạn vong niên đã một thời chia sẻ với tôi Sân Trường Cũ

Những năm đẹp nhất tuổi đời
Của thời trung học giờ chơi sân trường
Khi buồn vớ vẩn, khẩn trương
Khi vui quấy nhộn thất thường đồ điên
Thơ tình đọc chẳng đã ghiền
Người thương giận dỗi đủ phiền tàn canh
Những chiều sánh bước bên anh
Đụt mưa núp nắng làm lành mau quên
Một hôm qua cổng buồn tênh
Bóng ma tuổi trẻ còn trên sân trường
(TTV)

Tôi hứa tôi sẽ về thăm Mossard, về thăm sân trường cũ, dầu lửa thời gian có đốt cháy khung trời của tuổi thơ, khung trời của tuổi mơ và khung đời có tôi làm học trò nội trú.

No comments:

Post a Comment