Wednesday, November 2, 2016


Đừng cất giữ



Cố giữ thì sẽ không thể cho đi. Cất mãi cái cũ thì không còn dịp để nhận thêm điều mới...
Bạn có thói quen cất giữ những đồ vật vô ích, khi nghĩ rằng một ngày nào đó, bạn sẽ có thể cần đến chúng ?
Bạn có thói quen cất kỹ tiền bạc và không tiêu xài đến nó, bởi vì bạn nghĩ rằng bạn có thể thiếu thốn trong tương lai ?
Bạn có thói quen để dành những quần áo, những đôi giày, những bàn ghế, những đồ gia dụng mà bạn đã không sử dụng từ lâu rồi ?
Và trong tâm hồn bạn, bạn có thói quen lưu giữ những lời trách mắng, những mối thù hận, những nỗi buồn, những nỗi sợ hãi và cả nhiều thứ khác nữa ?
Bạn ơi, đừng làm như thế nhé ! Bạn đang đi ngược lại sự giàu sang rồi đấy !
Bạn cần phải dọn chỗ, cần dành một khoảng trống để cho phép những sự việc mới mẻ sẽ đến trong đời bạn nữa chứ.
Bạn cần phải vứt bỏ những thứ vô ích đang hiện diện trong bạn và nơi cuộc đời bạn để sự giàu sang còn có thể tìm đến nữa chứ.
Sức mạnh của sự trống rỗng đó là một sức mạnh sẽ thu hút và lôi kéo tất cả mọi thứ bạn mong ước.
Chừng nào bạn còn níu giữ những món đồ, ấp ủ những tình cảm quá xưa cũ và vô ích, khi đó bạn sẽ chẳng có chỗ cho những cơ may.
Của cải tiền bạc cần phải được lưu chuyển...
Hãy giốc sạch những ngăn kéo, dọn trống mấy cái tủ đứng, các phân xưởng, nhà xe… Hãy cho đi những gì bạn không còn sử dụng nữa…
Thái độ cất giữ một đống những thứ vô ích đang trói buộc đời bạn ở trần gian này đấy.
Không phải những vật dụng mà bạn cất giữ làm cuộc đời bạn đình trệ… nhưng chính là thái độ bo bo cất giữ…
Khi chúng ta cất giữ, chúng ta dự liệu tới lúc mình có thể bị túng thiếu…
Chúng ta cứ nghĩ biết đâu mai này mình sẽ cần đến những thứ ấy, và khi đó mình sẽ lôi chúng ra mà dùng.
Và như thế, bạn đã nạp vào đầu óc mình, vào cuộc đời mình hai thông điệp:
Một là bạn không còn tin tưởng vào tương lai. Hai là bạn cho rằng những điều mới mẻ và hay ho nhất sẽ không dành cho mình đâu.
Chính vì lẽ đó, bạn tự an ủi bằng cách cất giữ những thứ cũ kỹ vô ích. Bạn hãy loại bỏ đi những thứ đã phai màu và mất độ bóng…
Hãy để những gì là mới mẻ bước vào nhà bạn, ùa vào tâm hồn bạn…
Vì thế, sau khi đọc xong bài này…Đừng cất giữ nó, nhưng hãy chuyển ngay đi cho người khác…

Tuesday, November 1, 2016

Sơn trà






Tên Việt: sơn trà Tên Hoa: 山茶花(sơn trà hoa), 曼陀羅樹(mạn đà la thụ), 薮{藪}春(tẩu xuân), 山椿(sơn xuân/thung), 耐冬(nại đông), 晚山茶(vãn sơn trà), 茶花(trà hoa) Tên Anh: common camellia Tên Pháp: camélia commun, camélia du Japon Tên khoa học: Camellia japonica L. Họ: Sơn Trà (Theaceae)
Sơn Trà 山茶 Văn Chấn Hanh 文震亨
tự hữu nùng trang xuất giáng sa,
hành quang nhất đạo ánh triêu hà.
phiêu hương tống diễm xuân đa thiểu,
do kiến chân hồng nại cửu hoa.

Áo em lụa đỏ dáng phiêu diêu
Lóng lánh ban mai, buổi ráng chiều
Hương tỏa xuân xanh đà mấy nả
Mong chi thắm đỏ má yêu kiều
(Hoa Sơn Trà - ĐTK dịch)



 Riêng về “Trà hoa Vàng”, những kiểm nghiệm dược lý đầu tiên tiến hành trên đối tượng là động vật đã cho kết quả hết sức khả quan. Trà hoa vàng có khả năng kiềm chế sự sinh trưởng của các khối U đến 33,8%.Trong khi y học cho rằng chỉ cần đạt đến ngưỡng 30% đã có thể xem là thành công trong điều trị ung thư. Ngoài ra, nó giúp giảm đến 35% hàm lượng cholesterol trong máu mà nếu dùng các loại thuốc khác thì mức độ giảm chỉ là 33.2%. Hơn thế, trà hoa vàng còn có tác dụng làm giảm tới 36.1% lượng lipoprotein trong máu, cao hơn 10% so với các liệu pháp chữa trị sử dụng tây dược hiện nay. Đối với những biểu hiện xơ cứng động mạch do lượng mỡ trong máu cao thì sử dụng các chế phẩm từ trà hoa vàng là một cách chữa trị rất có hiệu quả. Sau khoảng 20 ngày những biểu hiện bệnh lý sẽ giảm hẳn. Trà hoa vàng còn rất tốt cho bệnh cao huyết áp vì khả năng làm giảm và điều hoà huyết áp của nó.
Pha 1-2 ml tinh chất từ Camellia nitidissima trong 100 ml nước, uống như chè hàng ngày có thể chữa được rất nhiều bệnh. Báo cáo tổng kết trên đối tượng là người tình nguyện cho thấy thức uống này có thể chữa được chứng táo bón nếu sử dụng trong vòng 1 tuần; uống liên tục trong khoảng 3 tháng có thể giúp hạ đường huyết, giảm lượng đường trong máu đối với bệnh nhân bị tiểu đường. Nó có thể thay phương pháp xạ trị trong điều trị ung thư như ung thư tuyến bạch huyết ngay cả ở giai đoạn cuối đem lại kết quả hết sức khả quan. Bên cạnh đó, một số bệnh về đường hô hấp, bài tiết (chứng tiểu khó và vàng), khí thũng hay co thắt dạ con ở phụ nữ đều có thể sử dụng thức uống này như một phương pháp chữa trị đơn giản lại sớm mang lại kết quả. Sở dĩ trà hoa vàng có nhiều công dụng như vậy là vì trong thành phần của nó có chứa các nguyên tố như SeGeMoMnVZn và một số nguyên tố khác có tác dụng trong việc bảo vệ sức khỏe, ngăn ngừa ung thư, củng cố tính đàn hồi của thành mạch, điều hoà các enzyme hoạt hoá cholesterol
Hoa trà hoa vàng có thể uống, điều chỉnh các chất béo trong cơ thể, lượng đường trong máu, giải độc gan và thận, theo y học Trung Quốc công bố, trà hoa vàng có 9 tác dụng chính:
- Trong hoa trà có những hoạt chất làm giảm tổng hàm lượng lipit trong huyết thanh máu, giảm lượng cholesterol mật độ thấp (cholesterol xấu) và tăng lượng cholesterol mật độ cao (cholesterol tốt);
- Nước sắc lá trà có tác dụng hạ huyết áp rõ ràng và tác dụng được duy trì trong thời gian tương đối dài;
- Nước sắc lá trà có tác dụng ức chế sự tụ tập của tiểu cầu, chống sự hình thành huyết khối gây tắc nghẽn mạch máu;
- Phòng ngừa ung thư và ức chế sự phát triển của các khối u khác
- Hưng phấn thần kinh;
- Lợi tiểu mạnh;
- Giải độc gan và thận, ngăn ngừa xơ vữa động mạnh máu
- Ức chế và tiêu diệt vi khuẩn;
- Ngoài ra, lá chè còn có tác dụng chống viêm, chống dị ứng và duy trì trạng thái bình thường của tuyến giáp.
Dùng làm cảnh
Cây trà hoa vàng  rất phù hợp để làm cây cảnh:
- Hoa trà có màu sắc rất là đẹp và lâu tàn
- cây trà có dáng cây nhỏ rấy thích hợp để cho vào chậu cảnh




MỘT NỮ KHOA HỌC GIA ĐÃ TỰ CHỮA LÀNH BỊNH UNG THƯ BẰNG PHƯƠNG PHÁP CẢI THIỆN ĂN UỐNG




Trần Anh Kiệt sưu tầm

Lời Giới Thiệu:Nữ Giáo sư Jane Plant là một khoa học gia nổi tiếng của Anh Quốc. Bà bị bịnh ung thư nhũ hoa từ năm 1987. Thông thường thì một bịnh nhân ung thư khó mà sống sót được khi bịnh đã tái phát đến lần thứ hai. Tuy nhiên nhờ kiến thức khoa học sẵn có cũng như với sự điều trị và chăm sóc nhiệt tình của các bác sĩ chuyên khoa thượng thặng, bà đã kéo dài được mạng sống. Dầu vậy bịnh của bà đã tái phát đến năm lần, rồi cuối cùng đã lan đến hệ thống bạch huyết trong cơ thể. Trước tình trạng nguy ngập đó, bà vẫn không chịu bó tay chờ chết mà cương quyết tự chữa bằng cách ăn uống có phương pháp. Cuối cùng bà đã lành bịnh. Bà đã cho xuất bản quyển sách Your Life in Your Hands (Mạng sống trong tay của bạn) dể kể lại những kinh nghiệm cá nhân mà bà đã trải qua để quảng bá cho tất cả mọi người. Nhận thấy đây là một tài liệu rất hữu ích nên chúng tôi xin trích dẫn một đoạn trong quyển sách ấy để cống hiến quý vị độc giả tham khảo.

" Sau khi bịnh ung thư nhũ hoa của tôi tái phát đến lần thứ năm, tôi nghĩ tôi sẽ không có sự lựa chọn nào khác hơn là phải chết hoặc cố gắng tìm một phương pháp khác để tự chữa cho mình. Tôi là một khoa học gia, dĩ nhiên tôi đã biết chứng bịnh quái ác này hiện nay đã cướp mất mạng sống của một trong số 12 người phụ nữ tại Anh Quốc và Úc Đại Lợi. Tôi đã cam lòng chịu giải phẫu mất đi hết một cái vú và đã được chữa trị bằng quang tuyến liệu pháp. Tôi cũng đang được trị liệu bằng chemotherapy và được chăm sóc bởi những y sĩ chuyên khoa tài giỏi. Nhưng cuối cùng tôi cũng chắc chắn sẽ phải chết mà thôi.

Tôi đã có chồng, sở hữu một ngôi nhà xinh đẹp và có hai đứa con ngoan ngoản dễ thương mà tôi rất yêu quý. Tôi mong muốn được sống còn. May thay niềm khao khát mãnh liệt đó đã giúp tôi có thêm nghị lực khám phá được rất nhiều sự kiện mới mẻ mà hiện thời một số khoa học gia khác cũng đã có cùng chung một số hiểu biết như tôi.

Những người có liên hệ đến bịnh ung thư nhũ hoa hẵn đều biết những trường hợp nguy hiểm khác cũng sẽ xảy ra cho chính bản thân người bịnh. Đó là sự già nua đến sớm; sắc đẹp chóng tàn; tuổi tắt kinh đến muộn vân vân, tất cả đều ở ngoài tầm kiểm soát. Tuy nhiên, theo tôi, những trường hợp nguy hiểm vừa kể có thể khống chế dễ dàng. Đó là chúng ta phải có nghị lực cương quyết thay đổi hoàn toàn một vài nếp sống mà nhất là thói quen ăn uống hàng ngày. Điều mà tôi muốn khẳng định cùng quý vị là bịnh ung thư nhũ hoa có thể chữa được vì chính tôi là một bịnh nhân đã sống còn qua cơn nguy hiểm và sẽ kể cho quý vị biết nhũng kinh nghiệm hữu ích đó.

Khi tôi bắt đầu bị bịnh và đang điều trị bằng chemotherapy thì chồng tôi là Peter, cũng là một khoa học gia, làm việc tại Trung Quốc đã trở về. Anh có mang về một số tài liệu và một số thuốc nhét (suppositories) bằng thảo dược, nghe nói là hay lắm. Chồng tôi mô tả đây là loại thuốc trị bịnh ung thư nhũ hoa đại tài tại Trung Quốc. Mặc dầu bịnh tình của tôi lúc bấy giờ thật là đáng ngại, nhưng cả hai chúng tôi không khỏi phì cười. Tôi bảo nếu quả thật đây là một loại thuốc công hiệu thì chắc tại Trung Hoa rất hiếm thấy phụ nữ bị bịnh ung thư nhũ hoa lắm. Mà thật vậy! Theo thống kê của các nhà khoa học thì tại khắp lãnh thổ Trung Quốc hiếm thấy phụ nữ mắc bịnh ung thư nhũ hoa. Trung bình thì cứ mười ngàn phụ nữ mới có một người mắc phải chứng bịnh quái ác này.

Trong khi ở Hoa Kỳ và các nước Tây Phương thì trung bình cứ 12 phụ nữ lại có một người mắc bịnh ung thư nhũ hoa. Sự kiện không phải vì dân chúng Trung Hoa sinh sống trong vùng nông thôn nhiều hơn nên không bị nạn ô nhiễm môi trường các loại như dân chúng trong thành phố. Bằng chứng tại Hồng Kông, một đô thị có mật độ dân cư đông đảo và cũng học đòi theo nếp sống Tây phương, nhưng cứ mười ngàn phụ nữ mới có 34 người chết vì bịnh ung thư nhũ hoa. Tỷ số này vẫn còn thắng xa Hoa Kỳ và các nước Tây Phương nhiều lắm.

Dân chúng Nhật Bản tại hai thành phố Hiroshima và Nagazaki cũng có tử suất tương tợ. Vì hai thành phố này bị nhiễm phóng xạ nguyên tử do Hoa Kỳ ném xuống từ thời Đệ Nhị Thế Chiến. Liên quan đến dân cư trong thành phố mắc bịnh ung thư cao, người ta cũng quan tâm đến sự quan hệ giữa phóng xạ tuyến nguyên tử và mầm móng gây ra bịnh ung thư như thế nào.

Song, thống kê cho thấy nếu phụ nữ Tây Phương mà di cư đến hai thành phố nhiễm nhiều phóng xạ nguyên tử ở Nhật Bản nói trên thì sát suất bị bịnh ung thư nhũ hoa lại càng cao hơn dân chúng dịa phương đến một nữa.

Thật rõ ràng, không phải chỉ có môi trường chung quanh ảnh hưởng đến nguyên nhân gây ra bịnh ung thư các loại, mà chính yếu là nếp sống cá nhân và thói quen ăn uống. Tôi cũng còn khám phá biết thêm sự cách biệt quá xa về tỷ số mắc bịnh ung thư nhũ hoa giữa dân chúng Tây Phương và Đông Phương không phải do nguyên nhân của sự di truyền huyết thống. Các chuyên gia nghiên cứu khoa học đã chứng minh cho thấy dân Trung Hoa và Nhật Bản di cư sang các nước Tây Phương, chỉ một hoặc hai thế hệ sau là sẽ có tỷ số mắc bịnh ung thư ngang hàng với dân chúng bản địa.

Sự kiện này cũng đã xảy ra tại Hồng Kông là người Trung Hoa nào bắt chước theo nếp sống y hệt như người Tây Phương thì cũng sẽ có nguy cơ bị các chứng bịnh nguy hiểm tương tợ. Vì vậy người Tàu có một câu ngạn ngữ dí dõm gọi bịnh ung thư nhũ hoa là "chứng bịnh của những phụ nữ giàu có". Lý do vì ở Trung Quốc chỉ có những người giàu có mới bắt chước theo lối ăn uống của người Tây Phương mà thôi. Phần đông người Trung Hoa gọi các thức ăn có nhiều chất béo động vật như sữa và các sản phẩm của sữa như bơ, phó mát, sô cô la vân vân là "đồ ăn Hồng Kông". Vì đó là các thức ăn uống du nhập từ Anh quốc vào lãnh địa này từ thuở xa xưa mà trong quá khứ rất hiếm và quý tại lục địa Trung Quốc.

Do những dẫn chứng trên đây, tôi nghĩ và cũng để ý thấy bịnh ung thư nhũ hoa xảy ra cho chính cá nhân tôi cũng thường thấy xảy ra trong giới phụ nữ trung lưu và giàu có tại các xứ Tây Phương. Qua nghiên cứu, tôi cũng đã biết được đa số những người đàn ông bị bịnh ung thư tuyến tiền liệt cũng ở trong trường hợp tương tợ như vậy. Theo thống kê của Tổ Chức Y Tế Quốc Tế (WHO), tỷ số những người đàn ông tại Trung Quốc mắc bịnh ung thư tuyến tiền liệt không đáng kể. Trung bình trong một triệu người chỉ có 5 người mắc phải bịnh này mà thôi. Tại các nước Tây Phương, tỷ số này cao gấp 70 lần nhiều hơn ở Trung Quốc và cũng phần đông xảy ra trong giới đàn ông trung lưu và giàu có. Tôi cũng nhớ tôi đã từng hỏi chồng tôi, một khoa học gia đã trở về từ Trung Quốc, rằng tại sao người Trung Hoa sinh sống như thế nào mà phụ nữ ít bị bịnh ung thư nhũ hoa vậy?

Chúng tôi đã lợi dụng cơ hội này để tra cứu các thống kê cập nhật của các khoa học gia và cuối cùng đã tìm ra được giải đáp là người Tây Phương đã ăn rất nhiều chất béo. Các nghiên cứu cho thấy trong thập niên 1980, trung bình người Trung Hoa tiêu thụ 14 phần trăm calories lấy từ chất béo, so với 36% của người Tây Phương. Tuy nhiên trước khi tôi bị bịnh ung thư nhũ hoa, tôi cũng đã ăn rất ít chất béo nhưng nhiều chất xơ. Vả lại tôi được biết đối với cơ thể của người lớn, hấp thụ nhiều chất béo chưa hẳn đã gia tăng nguy cơ bị bịnh ung thư nhũ hoa của phụ nữ, dựa theo các báo cáo trong quá trình nghiên cứu 12 năm qua.

Một hôm khi cùng làm việc với chồng tôi, tôi sực nhớ không biết một trong hai chúng tôi trước đây ai đã có lần bảo là người Trung Hoa không có dùng sữa và các sản phẩm của sữa. Thật là khó giải thích vì đây không phải là một sự kiện được nghiên cứu bằng khoa học. Tuy nhiên trên thực tế người Trung Hoa ít uống sữa và cơ thể của họ cũng khó chấp nhận tiêu hóa sữa. Tôi nhớ có một thời gian đã cùng làm việc nghiên cứu với một khoa học gia là người Trung Quốc. Vị này bảo rằng sữa chỉ dành cho trẻ con dùng, cho nên cô rất nhã nhặn từ chối các bữa ăn trưa nào có thực phẩm bơ sữa do tôi mời mọc. Theo thói quen của người Trung Hoa, trẻ con cũng không được nuôi lớn bằng sữa bò mà chỉ cho bú bằng sữa mẹ. Nếu vì sự bất tiện nào đó mà người mẹ không cho con bú được, có thể thuê mướn một bà vú để phụ trách công việc này.

Theo truyền thống văn hóa, người Trung Hoa có thành kiến xem việc người Tây Phương tiêu thụ sữa và các phó sản của sữa rất kỳ lạ. Tôi còn nhớ trong một buổi khoản đãi phái đoàn khoa học gia Trung Quốc sau thời điểm cuộc Cách mạng Văn Hóa không lâu vào thập niên 1980. Theo sắp xếp của phòng ngoại vụ, sau bữa ăn, chúng tôi đã mời họ dùng tráng miệng bằng kem . Họ hỏi thức ăn này được chế biến bằng gì và cuối cùng đã lịch sự từ chối vì nó được làm bằng sữa. Trong khi chúng tôi rất thích món khoái khẩu này.

Sữa (thông thường là sữa bò), theo tôi nghiên cứu là loại thực phẩm có nguyên nhân gây ra các loại dị ứng nhiều nhất. Hơn 70 phần trăm dân số trên thế giới không tiêu thụ được sữa vì tạng phủ của họ không tiêu hóa được đường lactose. Các chuyên gia dinh dưỡng cho rằng đây là trạng thái bình thường của những người lớn chớ không phải là sự yếu kém nào đó của cơ thể. Phải chăng loài người đã dùng sai loại thực phẩm không phù hợp với bản chất thiên nhiên.

Trước khi tôi bị bịnh ung thư nhũ hoa, tôi đã dùng rất nhiều sữa ít chất béo (skim milk), phó mát và sữa chua (yogurt). Tôi đã coi những thứ đó như là nguồn cung cấp chất đạm dồi dào. Tôi cũng đã ăn thịt bò nạc để bồi dưỡng. Sau khi bịnh tái phát lần thứ năm và trong thời kỳ điều trị bằng chemotherapy, tôi lại ăn sữa chua được biến chế bằng nguyên liệu hữu cơ để giúp cho bộ máy tiêu hóa được khỏe mạnh bằng cách tăng thêm những vi khuẩn hữu ích cần thiết.

Tuy nhiên, theo nghiên cứu hồi năm 1989, Bác sĩ Daniel Cramer thuộc trường Đại học Harvard ở Hoa Kỳ đã theo dõi và ghi chú hồ sơ của rất nhiều phụ nữ liên hệ đầy đủ từ chi tiết ăn uống của họ. Kết quả cho thấy sữa chua cũng có ảnh hưởng đến nguyên nhân gây ra các chứng bịnh ung thư noãn sào của nữ giới. Sau đó, chồng tôi và tôi, đã dựa theo thói quen ăn uống của người Trung Hoa, đã từ bỏ sữa bò và tất cả những sản phẩm nào có liên quan đến sữa, kể cả bánh ngọt và súp có thành phần chế biến bằng sữa ở trong đó. Mỗi lần đến siêu thị mua đồ ăn, tôi là người đọc rất cẩn thận công thức. Sau khi bịnh tái phát lần này, tôi cương quyết theo dõi kết quả một cách chặt chẽ.

Các bác sĩ và y tá khuyên tôi nên ăn uống bình thường gồm thịt, cá, trứng và sữa trở lại như xưa để bồi bổ. Nhưng tôi khước từ và tự mình chủ động theo dõi kết quả của sự chữa trị có hữu hiệu hay không? Thế rồi sau một loạt trị liệu bằng chemotherapy lần nữa, tôi hoàn toàn chả thấy có tiến bộ gì. Cục bướu vẫn còn y nguyên hình dáng và kích thước như cũ. Sau khi tôi từ bỏ sữa và các loại sản phẩm có sữa độ vài hôm thì cục u bắt đầu teo dần. Một tuần lễ sau, cục bướu ở cổ bắt đầu ngứa, sau đó nó mềm dần và thu nhỏ hình dạng lại. Trên đồ thị theo dõi, lằn ghi chú có chiều hướng đi xuống và cuối cùng nó xuống sát lằn ngang ở phía dưới (tức 0 độ).

Một buổi chiều thứ Bảy, sáu tuần lễ sau khi tôi bỏ luôn tất cả thành phần của sữa trong thực đơn của tôi nghĩa là không còn dính dáng gì tới thức ăn có nguồn gốc động vật, tôi ngồi thiền một tiếng đồng hồ và sau đó kiểm tra lại cục bướu thì nó đã hoàn toàn biến mất. Tôi là người đã tự theo dõi sự diễn tiến bịnh trạng của mình từ đầu tới cuối. Giờ phút này không có sự vui mừng nào bằng. Tôi vội xuống lầu và nhờ chồng tôi kiểm tra cẩn thận lần nữa. Kết quả anh cũng chẳng tìm thấy gì.

Thứ Năm tuần lễ sau đó, tôi trở lại phòng mạch của vị bác sĩ chuyên khoa để tái khám. Ông đã vô cùng sửng sốt và vui mừng bảo rằng: "Tôi không còn tìm thấy dấu vết nào của bịnh ung thư trong cơ thể của bà nữa cả !"

Thuốc men tại Hoa kỳ




Lan Hương sưu tầm

Cuối tuần qua xem báo được biết một vài công việc trong nghề làm thuốc Tây đã được chuyển ra nước ngoài (outsourcing). Sự thật như thế nào?

Khi đệ trình một phát minh mới theo luật tác quyền của nước Mỹ thì họ có 17 năm để hưởng lời trên phát minh đó. Nếu sau khi đệ trình phát minh mà chỉ 1 năm sau họ đã chế tạo ra thuốc thì họ sẽ được quyền tự dó bán dưọc phẩm đó trong vòng 17 năm.

Nhiều hãng bào chế muốn rút ngắn thời gian thử nghiệm nên nhờ những hãng tại ngoại quốc thử cho nhanh hơn. Có thể thử nghiệm tại Mỹ vì có nhiều luật lệ bó buộc hơn, nên kéo dài thời gian tiền bào chế ra hơn. Ví dụ thử nghiệm tại Mỹ mất 7 năm thì ở ngoại quốc chỉ mất có 4 năm thôi, như vậy họ được lợi thêm 3 năm để bán thuốc BRAND NAME với giá cắt cổ của họ. Trong tương lai nếu tiền lương các công nhân bào chế thuốc tại Hoa Kỳ tăng và có quá nhiều đòi hỏi của các nghiệp đoàn thì họ cũng có thể nhờ những hãng thuốc ở ngoại quốc làm giùm với tiền lương rẻ hơn để mang nhiều tiền lời về cho hãng.

Nguyên tắc của phát minh dược phẩm


Mỗi phát minh trình Toà sẽ được công nhận trong vòng 17 năm. Với phát minh đó công ty đệ trình phát minh được quyền định giá do dược phẩm của mình với BRAND NAME trong vòng 17 năm và sau đó trở thành GENERIC. Các vật liệu chính trong thuốc BRAND NAME giống hệt như thuốc GENERIC vậy chỉ khác nhau là giá cả và tên tuổi thôi. Khi đã quá hạn 17 năm thì bất cứ công ty nào cũng có thể lấy "chất liệu chính" của dược phẩm đó mà chế tạo ra thuốc của mình với tên khác bán ra thị trường cho người tiêu thụ.

Nhiều khi gần hết 17 năm thì họ lại chế ra một thuốc với tên khác tương tự với thuốc cũ nhưng thêm 1 vài chất liệu khác để giúp diệt trừ 1 hay 2 biến chứng của thuốc cũ và tăng liều lượng lên gấp đôi chẳng hạn. Trường hợp như thuốc Prilosex và Nexium chẳng hạn. Prilosec đã hết hạn kỳ 17 năm nên công ty đã làm ra viên thuốc mầu tím NEXIUM với liều lượng gấp đôi Prilosec. Nếu bác sĩ nào có lương tâm đã có thể viết toa cho bệnh nhân dùng loại Prilosec GENERIC với liều lượng mỗi ngày dùng gấp đôi thì công hiệu cũng giống hệt nhau. Ngoài ra họ còn bán loại Prilosec OTC tại các của tiệm thuốc mà không cần toa bác sĩ nữa.


Một thí dụ khác là mới đây các hãng bào chế Mỹ Pfizer chẳng hạn chế ra thuốc Celebrex and Bextra (COX-2 inhibitor products) . Nhưng người ta phát giác ra Bextra và Celebrex gây nên bệnh về tim mạch. Hiện đang có những vụ kiện rất lớn của LERACH COUGHLIN STOIA GELLER RUDMAN & ROBBINS LLP về 2 thứ thuốc này. Một phát giác mới là tác động và kết quả của Celebrex cũng như Advil và Ibuprofen mà thôi.

Các hãng dược phẩm có nhân viên rao hàng liên lạc hàng ngày với các bác sĩ để tặng những mẫu thuốc và nhiều bổng lợi khác nên các bác sĩ viết toa thuốc cho bệnh nhân đều ghi tên thuốc mới. Bệnh nhân chúng ta đa số đều không biết gì về thuốc men cả, chỉ biết nhận toa thuốc từ tay bác sĩ để mua uống chữa bệnh cho nhanh. Hãng bảo hiểm cá nhân hay MEDICARE/MEDICAID phải trả đắt tiền cho những thứ thuốc BRAND NAME đó, thay vì cho bệnh nhân dùng những thứ thuốc thông thường.

Một câu hỏi được đặt ra là tại sao thuốc tây bên Canada laị rẻ hơn bên Mỹ? Thưa là vì bên Canada có luật lệ là nhà nước định giá thuốc chứ không phải các hãng bào chế định giá như tại Mỹ. Bên Canada Bộ Y Tế quản trị thuốc men, định giá từng loại thuốc chiết tính theo lương công nhân, giá trị dược liệu, máy móc, chi phí văn phòng và quảng cáo cộng thêm một số phần trăm (từ 15% đến 20%) tiền lời. Bên Mỹ các hãng bào chế cộng thêm vào đó tiền nghiên cứu thử nghiệm và tăng số tiền lời lên đến 50%. 75% hay nhiều khi 100%. Do đó giá cả khác nhau một trời một vực.

Kết luận


Khi đã hiểu những vấn đề bên trong thì bệnh nhân chúng ta nên hiểu rõ là:

1. Thuốc BRAND NAME và GENERIC đều có chất liệu chính (active ingredients) y như nhau.
2. Nhiều hãng bảo hiểm không chịu trả thêm cho thuốc BRAND NAME nếu đã có thuốc GENERIC cùng loại
3. Công hiệu của 2 thứ thuốc giông hệt nhau, có khác là tên tuổi và bao giấy phía ngoài mà thôi
4. Quý vị nào muốn tìm hiểu và học hỏi thêm xin đọc cuốn sách "OVERDOSED AMERICA", có thể tìm được trong các thư viện của thành phố.

Trang thơ Biển Hồ






Khóc mẹ               

          
Biết là hương cháy về trời
Lá rụng về cội, mưa rơi về nguồn
Mà sao nước mắt trào tuôn
Mẹ đi để lại nỗi buồn quạnh hiu
Biết rằng mẹ thọ bấy nhiêu
Đã là khổ mẹ rất nhiều, mẹ ơi
Đốt hương cầu mẹ về trời
Vẫn nghe tiếng mẹ vẳng lời nghĩa nhân
Biết rằng đông lạnh vì xuân
Lá khô tái tạo xanh ngần chồi non
Biết rằng mẹ chẳng xa con
Mà sao trầm đốt thơm hơn mọi lần?
Chắp tay lạy mẹ trăm lần
Tha cho con một lỗi lầm mẹ ơi!
Bàn thờ hương tỏa lên rồi
Mẹ là ngọn lửa suốt đời bên con.

Khoai Lang, Một Loại Thực Vật Quê Mùa Nhưng Hữu Ích



Trần Anh Kiệt sưu tầm

Khoai lang là một loại rau củ tầm thường được trồng rất nhiều và phổ biến tại các vùng thôn quê ở xứ ta. Trong những năm đói nghèo do bởi mất mùa vì lụt lội hay hạn hán, người ta thường dùng khoai lang để ăn độn hay thay thế cho cơm gạo. Vì khoai lang rất dễ trồng, không mất nhiều công phu chăm bón nhưng vẫn thu hoạch được dễ dàng, nên nó không được người ta liệt vào loại lương thực hiếm quý.

Thế nhưng, trong y học dân gian cổ truyền, khoai lang là một loại đồ ăn rất nổi tiếng và được người Tây Phương coi như là một thứ thuốc để chữa bệnh thấp khớp và chứng vọp bẻ. Ở một vài nơi, người ta còn dùng khoai lang để giúp cho thông tiểu, điều kinh ở phụ nữ, chống sảy thai và chữa bệnh suyễn.

Qua nghiên cứu, người ta phát hiện khoai lang chứa dồi dào chất Beta-caroten, một loại sinh tố A rất hữu ích cho cơ thể. Trung bình hàng ngày mỗi người ăn từ 1/8 lít khoai lang nướng trở lên thì sẽ phòng ngừa được nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi đến 50 phần trăm. Tại Hoa Kỳ, trong một nghiên cứu khác, các khoa học gia còn chứng minh được những người ăn các loại rau củ có màu vàng đậm như củ cà-rốt, trái bí rợ (bí ngô) và trái squash... có thể phòng ngừa mắc chứng ung thư phổi đến 50 phần trăm so với những người không ăn các loại rau củ này.

Đối với những người đàn ông trước kia hoặc hiện nay vẫn còn hút thuốc, thì chất beta-caroten trong rau củ cũng có thể giúp ngăn ngừa được sự phát triển của một số chứng ung thư. Tuy nhiên điều này không phải là một sư tất yếu. Những ai cứ ỷ lại vào khả năng che chở của các loại rau củ để phòng chống các bệnh tật hiểm nghèo mà tha hồ ăn uống, không quan tâm đến sự tác hại của một số thức ăn và cứ bê tha, phóng túng trong thói quen sinh sống hàng ngày thì khả năng phòng chống bệnh tật đã vô tình bị vô hiệu hóa.

Trong một thí nghiệm khác trên cơ thể của loài vật, chất beta-caroten trong khoai lang gồm rất nhiều hợp chất Protease Inhibitor ngăn chận được sự hình thành của các bướu ung thư.

Khoai lang còn chứa rất nhiều chất xơ trong trạng thái lỏng (water-soluble fibre) nên có khả năng hạ giảm chất cholesterol trong máu. Trong một thí nghiệm khác được thực hiện bởi các nhà khoa học Nhật Bản cho thấy khoai lang có đặc tính kết chặt chất cholesterol lại rồi đào thải ra khỏi cơ thể có sức mạnh gấp 27 lần các trái cây và rau củ khác.Chất xơ của khoai lang có khả năng “quét” sạch chất cholesterol giống như công dụng của chất cholestyramine, một loại thuốc làm hạ giảm chất cholesterol trong cơ thể.

Trong y học dân gian cổ truyền của Trung Quốc, người ta thường cho các bệnh nhân bị cảm sốt ăn khoai lang nấu nhừ với một vài lát gừng và một ít muối thì bệnh mau bình phục.

Ngoài ra người ta còn tìm thấy dân trong bộ lạcYoruba ở xứ Nigeria có tỷ số sinh đôi đứng hàng đầu trên thế giới. Dân chúng trong bộ lạc này ăn rất nhiều khoai lang trong khẩu phần hàng ngày. Các chuyên gia nghiên cứu trong số đó có giáo sư Percy Nylander của trường đại học Ibadan ở Nigeria bảo rằng có sự liên hệ mất thiết giữa việc ăn nhiều khoai lang và tỷ số sinh đôi cao trong dân chúng nước này, bởi vì khoai lang chứa rất dồi dào chất kích thích sự sinh sản (follicle stimulating hormone: FSM) nên trong chu kỳ rụng trứng của người phụ nữ đã rụng thêm một noãn châu (egg) nữa. Tuy nhiên không phải tất cả phụ nữ Nigeria nào cũng vậy, những ai không ăn khoai lang và rập khuôn theo sự ăn uống của người Tây Phương thì tỷ số phụ nữ có khả năng sinh đôi rất thấp.

Tóm lại những rau quả nào có màu vàng đậm đều có chứa chất beta-caroten, tuy nhiên trong khoai lang là nhiều nhất. Những người ăn nhiều chất beta-caroten để phòng chống bệnh tật với một dung lượng nhiều và trong một thời gian lâu dài, thì màu da sẽ biến thành hơi vàng. Song điều này không có gì đáng lo ngại. Nó không phải là một sự ngộ độc và khi ngưng ăn các loại rau củ này trong một thời gian ngắn thì màu da sẽ trở lại bình thường. Ăn uống có phương pháp có thể ngăn ngừa được một số bệnh tật phát sinh và cũng có thể hỗ trợ cho tiến trình lành bệnh được hiệu quả và nhanh chóng hơn.

TRẦN ANH KIỆT
(Sưu tầm)

HẠT BỌT TRÀ



Võ Phiến


“Dịch thể ngạnh ngọc bào”: tôi lấy làm suy nghĩ về chữ “bào” rất nhiều.
Ca tụng cái bọt của chất nước ngọc? Trà là nước ngọc? Tốt lắm, nhưng còn chút bọt kia, nó giữ vai trò gì ở đây? Ai cũng biết trong chén trà Tàu bé bằng hạt mít, bậc đài các chỉ thưởng thức cái hương và cái vị của một hớp nước mà thôi. Làm gì có bọt bèo trong đó? Bọt bèo rườm rà cũng không có cả trong chén trà bột của người Nhật. Vả lại dù có dăm ba hạt bọt, thì đó đâu phải là một yếu tố làm nên giá trị của trà? Nói đến làm gì?
“Khát uống trà mai hương ngọt ngọt,
Giấc nằm hiên nguyệt gió hiu hiu.”

Ðó, nói như cụ Trạng Trình thế là đúng điệu: Thưởng trà, khách tao nhân chú trọng nhất cái hương.
Còn ham trà đến như ông Lư Ðồng, uống trà mà ngon trớn đến như ông ta – làm luôn một hơi bảy chén, đến nỗi gió dậy dưới nách ào ào – thế mà Lư Ðồng cũng không một lần đề cập đến bọt trà.
Có thể ngờ rằng những hạt bọt trong chén trà Tàu đã tan đi từ mười lăm thế kỷ rồi. Các lối uống trà khuấy (mạt trà) thịnh hành ở Nhật Bản, hay trà ngâm (diệp trà, tiễn trà, yêm trà) như ở Trung Hoa từ đời Minh về sau, đều không đếm xỉa đến bọt. Họa chăng hạt bọt được quí chuộng vào thời kỳ xa xưa của trà bánh (đoàn trà) nấu với đủ các món gia vị lủng củng, nào gừng, nào hành, nào vỏ quít, nào muối đó chăng?
Dẫu sao một hạt bọt trà dính trong câu thơ Tàu lưu lạc từ hơn nghìn năm xưa quả không đủ sức làm dâng lên sự suy tưởng trong một trí óc nặng nề. Sở dĩ tôi đã đâm ra nghĩ ngợi chỉ vì những hạt bọt nọ còn dính trên mớ râu của một ông cụ người cùng làng, cách đây không lâu.
Trong chỗ dân dã ở thôn quê miền Trung, người ta gọi nó là Chè, mà không gọi là Trà. Uống Trà Tàu là cái thú của hạng giàu sang; người bình dân thì uống Chè Huế.
Trà Tàu, pha theo lối Tàu. Chè Huế nấu lối Huế. Lối Huế không giống lối nấu chè tươi hay chè khô ngoài Bắc. Từ Huế, lần vào các tỉnh nam Trung phần, lối nấu chắc chắn cũng có thay đổi ít nhiều; vì vậy các quán nước chè bên đường ngoài Huế thường thấy có một chai nước cốt trữ sẵn, món đó không hề có ở vùng Nam Ngãi Bình Phú...
Trong bếp của mọi gia đình ngoài Trung đều có đủ hai món đồ gốm dùng để nấu nước: cái ấm và cái om. Om dùng cho chè Huế.
Chiếc om, hình thù nó như một trái sim lớn: nó tròn quay và miệng loe ra (như tai sim). Vì om không có quai như ấm, như nồi, siêu, xoong, chảo v.v... cho nên để nhắc nó người ta không thể dùng đôi đũa bếp: phải dùng cái cặp.
Cặp om là một thanh tre cật, dài non sải tay, uốn cong gập làm đôi, vòng cong vừa ôm khít chỗ eo của miệng om.
Có om có cặp, thế là đủ. Bỏ một vốc lá chè khô vào om, đổ nước vào, nổi lửa lên. Nước sôi, sắp trào ra, thì lập tức chế thêm tí nước lã vào để trấn nó xuống. Một chốc nó lại sôi bồng lên: lại tí nước lã nữa. Ba bận, bốn bận như thế... Cần nhất phải kiên nhẫn: lửa không nên cháy hỗn quá, nước chế thêm không nên nhiều quá, mỗi lần chút ít thôi. Có thế chè pha ra bát mới tốt bọt được.
Chè nấu xong đến chuyện pha nước. Bát bày sẵn bên bếp, trước tiên cho vào bát độ sáu bảy phần mười nước lạnh. Xong, dùng cây cặp nhắc om lên, rót nước chè sôi vào bát cho đến đầy.
A! Cái công việc rót nước ấy là cả một nghệ thuật đấy. Hạ om thấp quá thì bát chè ít bọt: đưa lên cao quá thì sẽ làm nổi lên những quả bong bóng to tướng. Bát nước kém bọt là hỏng, đã đành. Mà bọt nổi bong bóng lớn cũng là chuyện vụng về mà người nội trợ tự trọng phải cố tránh. Kẻ pha nước thông thạo biết chọn đúng cao độ cho om nước, biết rót xuống một dòng nước vừa phải, không nghiêng trút mạnh quá khiến bọt không tụ được, lại còn biết di động miệng om để phân phối bọt cho đều khắp, biết ngắt dòng nước đúng lúc để rồi rót thêm chỗ này một chút chỗ kia một tí, bổ di kịp thời vào những khoảng trống không đẹp mắt v.v... Ðến khi mọi sự đã viên thành, kẻ ấy gặc miệng om một cái trước khi ngừng tay, biểu diễn sự hài lòng trong cử chỉ chấm dứt.
Bát nước ngon lành phải thật nhiều bọt, đầy bọt, bọt hầu như phủ kín mặt nước, thứ bọt dẻo quánh lại, và nhỏ hạt.
Pha một bát nước vừa ý rồi mà phải đứa bé bưng nước không cẩn thận cũng đáng bực mình lắm. Bưng bát nước đầy thế nào từ dưới bếp lên đến nhà trên trao cho ông khách mà bọt không sánh ra ngoài, mà mặt nước không dao động đến nỗi làm vỡ bọt: được thế mới gọi là không phụ công phu kẻ nấu và pha nước.
Ðến đây đã rõ: Bao nhiêu công phu như đều dồn vào một chủ đích: “... ngạnh ngọc bào”.
Ông khách đón nhận bát nước, bưng trên tay, nhìn vào đám bọt tràn trề sung mãn mà không cầm lòng được. Bọt nước long lanh rạng rỡ phản chiếu khuôn mặt khách, lặp lại một vạn lần cái rạng rỡ ánh lên trong mắt khách. Nghịch ngợm, khiêu khích nhau đến thế thì không chịu được. Khách cúi đầu, chọn lựa một điểm thế thích nghi, chúm miệng thổi nhẹ để xua đuổi lũ bọt nước tránh giạt ra, dọn một khoảng trống vừa đủ chỗ đặt môi. (Dĩ nhiên, không một ai tính chuyện đớp mớ bọt nọ vào bụng!)
Bị đuổi, lũ bọt vội vàng vẹt tránh ngay. Nhưng hễ khách vừa nhúng môi xuống thì tất cả bọn chúng liền ập tới, bám riết quanh mép. Mực nước càng xuống thấp chúng càng rủ nhau kéo đến dồn dập, chen nhau lấn nhau, vỡ nổ lèo xèo trên môi trên mép của khách.
Có thể khách không hay biết về những gì xảy đến cho lũ bọt: Khách đang ngon trớn mà. Và tất cả sự khoái thích của việc uống chè Huế là ở trong cái trớn ấy.
Bát nước đã có lót đến sáu, bảy phần nước lạnh cho nên pha đầy nước dù đang sôi vào nó vẫn không quá nóng. Nó không như chén trà Tàu. Nó chỉ nóng vừa đủ cái độ khiến khách có thể uống ồng ộc một hơi, uống luôn không dừng, không ngẩng mặt lên, không rời môi khỏi miệng bát, cho đến cạn bát mới thôi. Mà bát chè Huế thì phải biết nó là những thứ bát khổng lồ. Hồi tiền chiến, người ta dùng bát Bài Thơ, bát Con Rồng: Một bàn tay xòe rộng chỉ che vừa miệng bát. Trong thời kháng chiến, nhiều gia đình thiếu thốn phải dùng đến những cái “vùa” đất: vùa chỉ thua bát ở nước men chứ kích thước không thua sút tí nào. Bởi vậy cái ngon của trà Tàu là cái ngon tiểu vẻ của hạng phong lưu đài các, cái ngon cầu kỳ kiểu cách của một chút vị ngọt ở chót lưỡi, chút hương thoảng qua mũi v.v...; còn cái ngon của chè Huế thì phàm tục thô bạo hơn, nhưng nó là cái ngon khỏe mạnh, thích hợp với bản chất nông dân lao động.
Trà Tàu để nhấp từng tí, là thứ trà của sự suy tưởng mơ màng. Còn chè Huế, không ai uống nó mà uống từng hớp rời. Ðã tợp vào là cứ thế thừa thắng xông lên ào ào, cứ ráo riết dồn dập cho đến cùng.
Mà đến tận cùng một bát Con Rồng thì bảy chén trà con của Lư Ðồng thấm vào đâu. Khách mà uống xong một bát chè Huế thì – theo ngôn từ nhà thơ Trung Hoa – dưới mỗi bên nách tất phải nổi lồng lên một trận bão. Và – theo cái lối mệnh danh của thời đại – có thể dưới nách bên này là một trận Hélène, bên kia là Jackie chẳng hạn.
Uống chè như vậy đâu đến nỗi vô vị?
Ở chỗ thôn quê nghèo nàn ngoài Trung, trong cái xã hội của hạng sống lam lụ quanh mình, tôi chưa được nghe câu chuyện nào liên quan đến cái giới uống trà Tàu. Ðây đó chỉ nghe toàn những giai thoại về chè Huế. Anh Ba Càng Cua mỗi sáng nhất định phải điểm tâm một bát thật đậm rồi mới ra đồng cày bừa được, mà hễ đã uống nước rồi là khỏi cần ăn; ông Tư và ông Tam Khoang vẫn cầm cự nhau suốt ba mươi năm nay: ông này mỗi lần hai bát thì ông kia cũng vẫn giữ vững đủ hai bát mỗi lần; ở làng nọ có người uống một lượt đến ba bát Bài Thơ; thôn kia có ông lão hai bát gặp được chàng trai hai bát rưỡi, lấy làm khoái, gả ngay con gái cưng cho v.v... Lại cũng không hiếm những câu truyền tụng về các bậc dị nhân ở tổng này huyện nọ uống một mạch hoặc bốn bát, năm bát nước, hoặc cả om nước, hoặc nửa vò nước v.v..., nhưng tôi ngờ rằng những chuyện đó thuộc về huyền thoại.
Dầu sao trong thôn dã có huyền thoại về chè om, về anh hùng chè lá, thì đủ biết om chè đã có địa vị nào đó trong cuộc sống tinh thần của dân gian.
Riêng đối với ông Tam Khoang, nó có vai trò trong cuộc đời tình cảm. Cũng như phần đông các tay cao thủ chè om, ông Tam Khoang có vóc người dềnh dàng, lực lưỡng. Trong chỗ xa tít nhất của ký ức tôi, ông đã có hai chòm râu mép. Ngày nay, trên bảy mươi tuổi già, ông cụ bạc trắng cả râu mép lẫn râu cằm.
Hồi tôi còn nhỏ, mỗi lần ông đến nhà, tôi thường lãnh việc bưng nước để được xem ông uống. Ông thong thả, chững chạc, trông không có vẻ gì là một người đang khát. Bưng tô nước lên tay, bao giờ ông cũng ngừng lại ngắm qua một chút để đánh giá; nếu có đàn bà trong nhà ngồi gần đâu đấy, ông không quên bình phẩm vắn tắt vài lời. Rồi thì bắt đầu: từ từ, không chút vội vã, ông uống cạn một bát, bình thản chờ đợi, rồi lại uống cạn một bát khác... Khi ông Tam Khoang ngẩng đầu lên lần thứ hai thì rất nhiều bọt trắng đã đeo lấy hai vệt râu mép. Tôi thích chí, chỉ chỏ: ông nở một nụ cười hiền lành, đưa tay áo quệt ngang một cái, rồi dùng hai ngón tay – ngón cái và ngón trỏ – vẹt sửa lại bộ râu.
Tôi chắc chắn không có một lần uống nào ông không bị lũ bọt chè quấy rầy bộ râu ấy; nhưng cũng không có lần nào đối với chúng ông không có cử chỉ khoan hòa.
Trước con mắt trẻ thơ của tôi bấy giờ, một con người đã thực hiện cái kỳ công là nuốt trọn hai bát nước to tướng như thế, với một vẻ vừa đĩnh đạc khả kính lại vừa giản dị khiêm nhường như thế, có vẻ đẹp riêng. Tôi ao ước mơ tưởng một ngày nào đó trong đời có thể học được cái phép làm một dị nhân từ tốn độ lượng kiểu ấy, để cho lũ bạn bè chúng nó lác mắt ra, vừa kinh hãi vừa cảm phục trong lòng. Cho đến ngày nay thì tôi đã chắc chắn đến mười phần là trọn đời mình không sao có được cái phép lạ ấy trong khi ông Tam Khoang vẫn đều đều mỗi ngày tái diễn ba bốn lần.
Do đó, tôi hoàn toàn cảm thông cái tâm sự của bà Tư. Bà có người chồng xuất sắc: ông Tư có tài uống một hơi hai bát chè. Nhưng bà không cầm lòng được trước phong thái của ông Tam Khoang. Từ hơn ba mươi năm trước, trong chỗ chòm xóm với nhau người ta thường gặp ông Tam Khoang đến chơi nhà ông Tư, chủ khách mỗi đàng hai bát nước xong, mặt mày thỏa thuê tươi rạng, đàng nào lặng lẽ mân mê ve vuốt râu mép của đàng ấy... Tất nhiên không phải là một cuộc đấu râu. Ðây là sự gặp gỡ của hai kẻ đàn ông nơi lòng mến mộ của một người đàn bà.
Ðối với mối tình tay ba ấy bà con làng xóm không có lời chỉ trích nghiêm khắc, chỉ có những giễu cợt khúc khích. Mối tình cứ thế kéo dài suốt ba, bốn chế độ chính trị, suốt đôi ba mươi năm ly loạn.
Cho đến ba năm trước đây thì xảy ra một biến cố: gia đình ông Tam Khoang quyết định tản cư lên tỉnh lỵ, gia đình ông Tư ở lại làng.
Thật là tan tác, bi ai. Tuy nhiên rồi sau đó người ta thấy rõ lòng người vẫn thắng nghịch cảnh: đôi ba tháng một lần ông Tam Khoang tìm được dịp về làng, ghé chơi nhà ông Tư.
Ghé chơi ông Tư, một mặt công khai chủ khách hể hả uống bốn bát nước chè, một mặt kín đáo ông Tam Khoang giúi cho bà Tư hoặc một xấp lãnh nhuộm đen bằng mặc nưa ở biên giới, hoặc một cái quần xa-teng Mỹ A v.v... Chỗ tỉnh lỵ coi vậy mà có lắm sáng kiến cung cấp cho ông nhiều lý do chính đáng để ông quyết định những chuyến về làng mạo hiểm. (Phải, đã ra tỉnh lại trở về làng là một chuyện nguy hiểm mà đám con cháu ông Tam Khoang tìm mọi cách để can ngăn.)
Ông Tam Khoang mạo hiểm hơn một năm trời như thế rồi thì rốt cuộc gia đình ông Tư cũng dọn lên tỉnh. Lại đề huề, lại sum vầy.
Ôi, cái cảnh sum vầy mới ngộ nghĩnh làm sao. Trong chuyến gặp nhau gần đây nhất, tôi được biết bây giờ giữa hai ông cụ có sự khắng khít như chưa bao giờ mật thiết đến thế: không ngày nào ông Tam Khoang không có mặt tại nhà ông Tư đủ hai buổi sớm chiều.
Có thể giải thích rằng trong cảnh xa lạc xóm làng những cụ già bơ vơ giữa đô thị thường tìm đến nhau như tìm về dĩ vãng của mình. Nhưng lý do cụ thể hơn hết, lý do sờ mó được, ấy là chiếc om chè.
Ðúng thế, cách đây nửa năm, chiếc om nhà ông Tam Khoang bị vỡ, và ông không thể tìm mua ở đâu cho được chiếc om khác thay thế. Om đất bây giờ đã biến mất trên thị trường. Om đất đã chết không kèn không trống, không một lời báo trước; vì vậy không ai được biết để mà phòng bị, tích trữ. Và một người đã uống chè Huế hơn nửa thế kỷ như ông Tam Khoang chẳng lẽ nay lại đi nấu chè trong cái niêu đồng? Vậy sự hiện diện thường trực của ông tại nhà ông Tư là một sự chính đáng.
Trong những ngày cuối cùng của cuộc sống, mặc dù cảnh đời ly loạn, hai ông cụ vẫn tiếp tục ngày ngày cúi xuống thổi những tảng bọt ngon lành nổi trên bát nước trao lên từ đôi bàn tay thân yêu nhăn nheo: cứ như thế họ hưởng hạnh phúc. Tôi hỏi thăm:
– Thưa, các cụ vẫn uống được hai bát như xưa...
Hai ông cụ tranh nhau đáp:
– Cám ơn ông Hai. Nhờ trời vẫn đủ hai bát mỗi lần.
Trên môi ông Tam Khoang nở một nụ cười kín đáo, man mác. Tuy vậy người ta cũng nhận thấy về già ông mất đi cái khiêm nhường đáng yêu của một người tự tin: về già – dù kín đáo – ông lại không giấu được một chút kiêu hãnh.
Sự mất tích của chiếc om đất không chỉ có tác dụng làm khắng khít một mối tình già. Tôi lo rằng sự mất tích ấy cũng có thể gây ra đôi điều không hay.
Không phải các dân tộc nhất thiết phải gìn giữ mãi mãi các phong tục ăn uống. Trong lịch sử, người Trung Hoa đã lần lượt trải qua những cách uống trà khác nhau hoàn toàn; có sao đâu? Lại còn nhờ thế mà họ tiến được đến những bình trà Thiết Quan Âm, Bạch Mao Hầu v.v... danh tiếng ngày nay, chắc chắn là hơn hẳn món trà uống với muối gừng xưa kia.
Nhưng trong trường hợp của chè Huế, dường như đây không phải là một biến chuyển để tiến tới. Trái lại.
Ðất Bình Ðịnh từng ghi được nhiều thành tích về trà. Trong cuốn sách viết về chỗ quê hương, thi sĩ Quách Tấn có nói đến thứ khổ trà ở miền An Lão Hoài Ân, thứ trà quí được vua chúa thích một thời. Trong đoạn hồi ký về chuyến ghé Nam kỳ năm 1778, một nhà hàng hải người Anh tên Chapman đã chú ý đến ngành buôn bán trà đang hồi cực thịnh tại đây: từ hải cảng Qui Nhơn cho đến hoàng thành của Nguyễn Nhạc, dọc đường nơi nào cũng thấy những cửa tiệm bán trà.
Có lẽ cả thứ trà dâng cho vua Nguyễn Gia Miêu cũng như thứ trà thịnh phát dưới triều Nguyễn Tây Sơn đều là trà pha chế lối Tàu. Còn chè Huế sau này thì không còn ai dâng vua, cũng không hề được bày bán trong tiệm: người ta chỉ bán chè Huế ở chợ, hay bán rong dạo xóm dạo làng...
Thời của trà vua chúa đã qua, đến thời của chè om cho dân dã, cũng được chứ sao. Nhưng bây giờ om cặp lại mất tích, rồi sắp hóa sinh ra thứ chè gì nữa đây? Cứ sự thể này thì hình như chè om tính đi luôn vào lịch sử không để lại thừa kế, không lưu vết tích. Thay thế cho nước chè, rồi sẽ có những thứ khác, thiếu gì. Các người làm văn hóa dân tộc đang ngậm ống nhựa hút tùn tụt những ly pepsi, coca v.v... không thấy đó sao? Thật tốt, thật hợp vệ sinh.
Có điều một người Nhật Bản, ông Okakura Kakuzo, đã mỉa mai nhẹ nhàng một vị huấn cổ học giả đời Minh bên Tàu khi ông này lúng túng không biết giải thích thế nào về hình dáng chiếc “trà tiễn” được nói đến trong một tác phẩm đời Tống. Sự lúng túng ấy gần mang ý nghĩa sỉ nhục, khi một bậc trí thức Trung Hoa quên mất cả phong tục tập quán của dân tộc mình sau một thời gian bị quân Mông Cổ cai trị.
“Trà tiễn” là món có công dụng rõ rệt mà người đời còn quên nó, huống hồ “trà bào”! Thật vậy, cái om, cái cặp, và đặc biệt là cái bọt chè, rất có thể là những tai họa cho các vị huấn cổ học giả nước nhà trong tương lai. Năm ba mươi năm sau, nói đến sự thích thú trước một bát nước chè đầy bọt thì còn hiểu thế quái nào được? thì các bậc học giả dám ngẩn tò te lắm chứ.
Trà tiễn để mà khuấy, chứ còn bọt chè dùng để làm gì? Không uống được, không ngửi được, không nếm được v.v... nó thành ra cả một sự bí hiểm, một sự thách đố đối với các nhà nghiên cứu. Ẩm giả yêu bọt chỉ vì bọt sao chớ? Cũng như nghệ thuật vị nghệ thuật vậy sao?
Bởi thế, trước khi bọt chè tan vỡ tiêu tùng hết, nên có đôi lời ghi chép về chút chuyện bọt bèo.